Tham khảo ôn học sinh giỏi Ngữ văn THCS

I. Đọc hiểu văn bản: ( 6 điểm)

 Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

“Đất mọng nước mưa, và khi gió xua tan mây ra, đất ngây ngất dưới ánh nắng chói lọi và tỏa ra một làn khói lam. Sáng sáng, sương mù dâng lên từ một con ngòi, từ vùng trũng bùn lầy nước đọng. Sương trôi như sóng, lao ra ngoài đồi núi thảo nguyên và ở đó nó tan ra thành một lớp khói lam mịn màng. Và trên những cành lá đâu đâu cũng la liệt những giọt sương nặng nom như những hạt đạn ghém đỏ rực, đè trĩu ngọn cỏ. Ngoài thảo nguyên, cỏ băng mọc cao hơn đầu gối. Lúa vụ đông trải ra đến tận chân trời như một bức tường xanh biếc. Những khoảnh ruộng cát xám tua tủa những ngọn ngô non như muôn ngàn mũi tên. Tới thượng tuần tháng 6, thời tiết đã đẹp đều, trời không gợi một bóng mây, và thảo nguyên nở hoa sau những trận mưa phơi mình ra lộng lẫy dưới ánh nắng. Giờ đây, thảo nguyên nom như một thiếu phụ đang nuôi con bú, xinh đẹp lạ thường, một vẻ đẹp lắng dịu, hơi mệt mỏi và rạng rỡ, nụ cười xinh tươi hạnh phúc và trong sáng của tình mẹ con.”

 ( Trích” Đất vỡ hoang”- sôlôkhôp)

Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn trên là gì?

Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn văn trên?

Câu 3. Trong đoạn trích trên, nhà văn đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc nào? Nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó?

 Câu 4. bằng trải nghiệm văn học của bản thân, hãy lấy một ví dụ trong Văn Thơ thơ có sử dụng biện pháp tu từ mà em vừa tìm ở trên?.

II. Tập làm văn ( 14 điểm)

 Câu 1.(4 điểm)

Em hãy viết đoạn văn cảm nhận về đoạn thơ sau:

“ Cháu nằm trên lúa

 Tay nắm chặt bông

 Lúa thơm mùi sữa

 Hồn bay giữa đồng

 Lượm ơi, còn không?”

( Trích “Lượm” - Tố Hữu)

 

doc 436 trang linhnguyen 14/10/2022 2380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tham khảo ôn học sinh giỏi Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tham khảo ôn học sinh giỏi Ngữ văn THCS

Tham khảo ôn học sinh giỏi Ngữ văn THCS
h ở câu thơ "Chim bay dọc biển đem tin cá" ngày xưa?!
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm.
* Tác giả: Tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh 1921, quê ở 1 làng chài ven biển - Quảng Ngãi.
- Là nhà thơ trong pt Thơ mới - chặng cuối (40 - 45).
- Quê hương là cảm hứng lớn trong suốt đời thơ của TH.
* Tác phẩm: là sáng tác mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương.
 + Nhà thơ đã viết “Quê hương” bằng cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng của quê hương, mến yêu những con người lao động tràn trề sức lực; bằng những kỉ niệm sâu đậm, nồng nàn của thời niên thiếu.
 + Bài thơ được viết theo thể 8 chữ, kết hợp cả 2 kiểu gieo vần: liên tiếp và vần ôm.
*II. Đôi nét về bài thơ Quê hương
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945)
2. Bố cục
- 2 câu đầu: Giới thiệu chung về làng quê.
- 6 câu tiếp: Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá
- 8 câu tiếp: Cảnh thuyền cá về bến.
- 4 câu tiếp: Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương
3. Nội dung
- Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.
4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, giọng thơ khỏe khoắn hào hùng
- Hình ảnh thơ phong phú, giàu ý nghĩa
- Nhiềuphép tu từ được sử dụng đạt hiệu quả nghệ thuật
 Các bước phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Đôi nét về nhà thơ Tế Hanh
Tế Hanh (sinh năm 1921 – mất năm 2009) có tên khai sinh là Trần Tế Hanh. Ông sinh thành tại một làng chài ven biển ở xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Làng chài có dòng sông Trà Bồng bao quanh ấy chính là hình ảnh để lại ấn tượng đậm sâu trong lòng nhà thơ và trở đi trở lại rất nhiều trong những sáng tác của nhà thơ sau này. Tế Hanh có khoảng thời gian gắn bó, học tập ở làng quê sau đó ông có cơ hội ra Huế học trung học vào năm 15 tuổi.
Cái duyên của Tế Hanh với thơ ca xuất phát từ niềm ham mê thuở nhỏ khi có cha làm nghề dạy học. Bên cạnh đó, khoảng thời gian học tập ở Huế đã cho ông nhiều trải nghiệm với thơ ca khi được gặp gỡ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, được tiếp xúc với những bài thơ trữ tình, lãng mạn của Pháp, ông bắt đầu có những sáng tác đầu tay.
Đến năm 1945, ông đã bắt đầu “dấn thân” vào sự nghiệp cách mạng và hoạt động văn hóa văn nghệ ở Liên khu V. Khoảng thời gian tập kết ra Bắc vào năm 1954 cũng là thời gian Tế Hanh gắn bó với các hoạt động ở Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là dịp để ông có thể thể hiện khả năng sáng tác của bản thân và chính nhờ những nỗ lực của mình mà năm 1996, Tế Hanh đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Bên cạnh những tác phẩm viết về niềm khát khao cháy bỏng Nam Bắc hai miền sum họp một nhà, Tế Hanh thường được biết đến với những sáng tác viết về những bài thơ thể hiện nỗi nhớ thiết tha, trìu mến với quê hương bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, hiền hòa và đằm thắm. Ông có những tác phẩm có thể kể đến như: “Hoa niên” (năm 1945, còn có tên khác là “Nghẹn ngào”), “Gửi miền Bắc” (năm 1955), “Tiếng sóng” (năm 1960), “Hai nửa yêu thương” (năm 1963), và “Khúc ca mới” (năm 1966)
Những nét chính về bài thơ Quê hương
Trước khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, ta cần nắm được hoàn cảnh cùng những nét chính về tác phẩm này. “Quê hương” là bài thơ được rút ra từ tập “Nghẹn ngào” (năm 1939). Đây là một trong những sáng tác đầu tay, cũng là bài thơ mở đầu cho nguồn cảm hứng lớn về quê hương của suốt đời thơ Tế Hanh. Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ với âm hưởng khỏe khoắn, đã diễn tả được những tình cảm đậm đà, sáng trong mà nhà thơ dành cho làng chài “cách biển nửa ngày sông” của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Tâm tình về “làng tôi”, bức tranh sinh hoạt của làng quê miền biển, những tình cảm chân thành và nỗi nhớ da diết của tác giả là những nét chính khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
Lời giới thiệu về “làng tôi” bình dị đầy mến thương
Để khơi nguồn cảm xúc cho bài thơ, nhà thơ đã nhắc lại “câu thơ của phụ thân”: “Chim bay dọc biển đem tin cá” và rồi cánh chim ấy đã mang về biết bao hình ảnh đẹp tươi về quê hương của nhà thơ.
Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, Tế Hanh đã giới thiệu về làng quê của mình một cách rất bình dị và tự nhiên:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.”
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy trong lời thơ ấy, ta như thấy gợi lên ở đó một hình ảnh của một làng chài nhỏ ven biển. Ở nơi ấy, những người dân quê ông mưu sinh bằng cái nghề cả đời gắn liền với nắng gió, với từng hơi thở của biển – chài lưới. Cả một đời bám biển bằng những chuyến tàu đi về của họ đã trở thành một ấn tượng sâu đậm mà khi cất tiếng gọi thân thương “làng tôi”, để rồi hình ảnh về con người quê mình cũng đồng thời hiện ra cùng lúc.
Nhớ về quê hương, tác giả cũng nhớ về cái địa thế đặc biệt của làng mình khi đó là một nơi “nước bao vây” khắp các bề như một đặc ân đem về cho họ nguồn sống bất tận. Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh yên bình, thân thuộc của một làng chài ven biển.
Bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động chăm chỉ
Sau hai câu thơ mở đầu, nhà thơ đã dành những dòng viết tiếp theo để miêu tả cảnh dân làng ra khơi đánh cá vào một ngày có sự ủng hộ của tiết trời:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.”
Đó là những câu thơ đẹp với những hình ảnh vừa rất thực tại và cũng vừa lãng mạn như“trời trong”, “gió nhẹ” và “sớm mai hồng”. Những hình ảnh ấy đã mở ra cảnh tượng trong trẻo, thoáng đãng của bầu trời có pha vào đó màu hồng tươi tắn của ánh nắng ban mai. Trên phông nền của cảnh ấy, hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi xuất hiện thật nổi bật. Chúng xuất hiện bên những “trai tráng” khỏe mạnh, lực lưỡng, vạm vỡ và dũng cảm và dưới sự lèo lái của họ, những chiếc thuyền lao đi hăng hái như những con tuấn mã được thúc vó băng vạn dặm xa.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy thông qua hình ảnh so sánh “con tuấn mã” kết hợp với hàng loạt các động từ “hăng”, “phăng”, “vượt”, nhà thơ đã diễn tả một không khí hồ hởi, một sức sống mạnh mẽ và cả vẻ đẹp hùng tráng đầy lôi cuốn của con người trong khoảnh khắc khởi đầu đầy ấn tượng. Do đó, những câu thơ không còn là những nét vẽ đơn thuần về một bức tranh phong cảnh thiên nhiên với sắc màu tươi sáng mà còn lột tả cả bức tranh lao động sôi nổi, hào hứng như hứa hẹn một ngày lao động gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp.
Khí thế băng băng tới trùng khơi dũng mãnh của đoàn thuyền cũng có lúc hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn ở cách miêu tả cánh buồm no gió trong hai câu thơ tiếp theo:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Giữa biển khơi muôn trùng sóng nước, cánh buồm căng gió làm cho bức tranh lao động trở nên thơ mộng đến vô cùng. Cánh buồm khi cùng con người trong hành trình ra khơi đã không còn là một vật vô tri mà trở thành một sinh thể, là “mảnh hồn làng”. Nó biết “rướn thân trắng” để “thâu góp gió”, tiếp sức cho đoàn thuyền vươn khơi mạnh mẽ.
Khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, ta thấy hình ảnh cánh buồm khiến cho ta dễ liên tưởng công việc ra khơi đánh bắt của những người đàn ông miền biển. Bên cạnh đó thì những người ở lại cũng vẫn đồng hành cùng với họ bằng sự dõi theo, bằng sự nguyện cầu về những điều tốt lành và bằng cả niềm hi vọng về cuộc mưu sinh thuận lợi. Đó phải chăng chính là ý nghĩa thiêng liêng mà tác giả muốn gửi gắm vào hình tượng miêu tả ấy?
Cảnh ra khơi được tái hiện bằng một bức tranh tươi sáng, hứng khởi và lúc đoàn thuyền trở về, nó lại hiện hữu trong một bức tranh náo nhiệt, đầy ắp niềm vui:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Không khí “ồn ào”, “tấp nập” được tái hiện bởi trong mỗi người dân đều ánh lên niềm vui trong mắt bởi thu về “cá đầy ghe”. Trông “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” lấp lánh trong ngày thuyền cập bến, ắt hẳn người làng chài đã cảm thấy rất đỗi hạnh phúc vì sự hăng say, nhiệt thành trong lao động của họ đã được đáp đền lại bằng một thành quả vô cùng ngọt ngào và xứng đáng.
Họ cũng nhận ra rất rõ một điều là để thu về những sản phẩm lao động giá trị như vậy cũng là nhờ vào sự ủng hộ của trời đất khi giúp họ bằng cách để sóng yên, biển lặng. Thế nên, với sự giúp sức ấy, họ cũng thầm gửi đến một sự cảm tạ chân thành.
Sau khi đã phăng phăng, phơi phới “vượt trường giang”, giờ là lúc con người và con thuyền được nghỉ ngơi trên bến:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Khắp thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Không biết tự bao giờ, cái nắng gió của biển trời, vị xa xăm của gió khơi đã in hình, khắc tạc vào trong vóc dáng của những người con làng chài. Họ là những con người có tầm vóc phi thường nhưng sự phi thường ấy lại được đắp bồi bởi những thứ đặc trưng của quê hương, xứ sở.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh sẽ thấy cách miêu tả con thuyền trong trạng thái “trở về nằm” cũng không kém phần đặc sắc. Nếu như lúc vươn khơi, nó “hăng như con tuấn mã” thì khi về nó lắng lại để bến bờ dỗ giấc. Vốn là một sinh thể có hồn, lúc ra khơi nỗ lực, hăng hái giúp người dân thì sau ngần ấy những nỗ lực, nó cảm nhận rõ sự mỏi mệt để rồi gác lại cái sôi nổi ban đầu, nó tự “lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” của nó. Trong sự im lặng vẫn hiện tồn sự chuyển động
Giống như con người, với biển khơi, con thuyền cũng có một sự gắn bó đậm sâu khi ngấm vào trong mình chất muối đặc trưng. Với ngòi bút tài hoa và sự thấu hiểu đến tường tận con người và cảnh vật quê hương, tác giả đã tạo ra những câu thơ xuất thần và thật ý nghĩa.
Tình cảm sâu nặng cùng nỗi nhớ tha thiết của tác giả với quê hương
Ở những câu thơ cuối cùng, nhà thơ đã viết nên những dòng thơ nói về tâm tư, nỗi lòng của riêng mình với quê hương trong hoàn cảnh xa cách:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ,
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng vượt ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Những dòng trên đã được viết bằng tấm lòng thơm thảo của người con xa xứ luôn hướng về quê hương của mình. Với nhà thơ, từ hình ảnh “màu nước xanh”, “cá bạc”, từ “chiếc buồm vôi” căng gió, “con thuyền rẽ sóng” mạnh mẽ và đặc biệt là “cái mùi nồng mặn quá”, nhà thơ đều khắc ghi rõ trong tâm trí đến từng chi tiết.
Tác giả nhớ tất cả những điều đó bởi một lẽ rất giản đơn, đó là những đặc trưng của miền biển quê ông, là những gì làm nên quê hương mà suốt đời ông luôn “tưởng nhớ”. Khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, người đọc cũng nhận thấy trong cách diễn đạt từ trái tim rất giản dị và da diết ấy, nỗi nhớ hiện lên khôn nguôi nhưng cũng thật hồn hậu và tự nhiên.
Đánh giá nghệ thuật khi phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Bài thơ “Quê hương” mang đặc sắc nghệ thuật của một bài thơ trữ tình. Tuy phần nhiều là những câu thơ miêu tả nhưng bao trùm lên tất cả cảnh vật, cuộc sống và hình ảnh con người vẫn là nỗi nhớ da diết, cồn cào của nhà thơ về quê hương. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, ta cũng thấy được cái hay của tác phẩm còn được tạo nên bởi những hình ảnh thơ độc đáo, vận dụng hiệu quả các biện pháp so sánh nghệ thuật Chính điều đó đã góp phần tạo nên khung cảnh sinh hoạt chốn quê hương vừa là những cảnh thực nhưng cũng vô cùng bay bổng, lãng mạn
Tất cả những đặc sắc nói trên về nghệ thuật đã giúp Tế Hanh khắc họa được một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê ven biển và nổi bật hơn cả là vẻ đẹp của con người lao động khỏe khoắn đầy sức sống.
Tác giả đã sử dụng thể thơ tám chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc giản dị, tự nhiên
Những hình ảnh trong bài thơ thể hiện sự liên tưởng, so sánh cũng như nhân hóa vô cùng đa dạng và độc đáo.
Quê hương của Tế Hanh giản dị, mộc mạc với giọng điệu nhẹ nhàng và đầy tha thiết.
Kết bài: Như vậy, với “Quê hương”, Tế Hanh đã góp vào làng thơ Việt một thi phẩm mang vẻ đẹp tươi sáng của bức tranh làng quê vùng biển. Bài thơ cũng góp phần thể hiện tình cảm trong sáng và tha thiết mà tác giả dành cho con người và cảnh vật ở quê hương. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh đã khiến mỗi chúng ta thêm trân quý nhiều hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình.
******************************************
Cảm nhận của em về bài thơ “Quê hương" của Tế Hanh
"Làng tôi ờ vốn làm nghê chài lưới...",
"Quê hương tôi có con sông xanh biếc
- Nước gương trong soi tóc những hàng tre...",
những vần thơ tha thiết đối với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua. Bài thơ "Quê hương" được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn 18 tuổi, đang học Trung học tại Huế. Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Bài thơ man mác nhớ thương vơi đầy.
Luận điểm 1: Hai câu thơ đầu là lời giới thiệu về "làng tôi" thật thân mật, tự hào, yêu thương... 
"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông"
Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước "bao váy", một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung "cách biển nửa ngày sông". Con sông mà nhà thơ nhắc tới là sông Trà Bồng chảy qua huyện Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân'dã vừa cụ thể vừa trừu tượng nghe "dịu ngọt".
Luận điểm 2: Sáu câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương. Đó là cảnh làng chài ra khơi đánh cá. Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có "gió nhẹ", có ánh mai "hồng". Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh "bơi thuyền đi đánh cá". Cảnh đẹp sáng trong, giọng thơ nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh và niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi:
"Khỉ trời trong, gió nhẹ, sớm mơi hồng
Dân trơi tráng bơi thuyền đi đánh cá".
Nhận xét đánh giá về nghệ thuật ÆMột loạt ẩn dụ, so sánh mới mẻ nói về con thuyền, mái chèo và cánh buồm... Tuấn mã là ngựa tơ, đẹp, phi nhanh. Ví chiếc thuyền "nhẹ hăng như con tuấn mã", tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lén đường. Chữ "hăng" dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết với các từ ngữ: "dán trơi tráng" và "tuấn mã" hợp thành tính hệ thống, một vẻ đẹp của văn chương. Có người lầm tưởng là chữ "băng" rồi bình giảng "băng băng lướt sóng "! Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lổ chém xuống nước, "phăng" xuống nước một cách mạnh mẽ, đưa con thuyền "vượt trường giang". Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái chèo là hình ảnh "cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng". "Trương" nghĩa là căng lên đổ đón gió ra khơi. Nhận xét đánh giá về nghệ thuật ÆSo sánh "cánh buồm" to như "mảnh hồn làng" là hay, đặc sắc. Cánh buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương. Nó tượng trưng cho sức mạnh , lao dộng sáng tạo, ước mơ vê ấm no hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng đi chinh phục biển của đoăh trai tráng bơi thuyồn đi đánh cá. Nhận xét đánh giá Æ Câu thơ "Rướn thán trắng bao la thâu góp gió" là một câu thư đậm đà ý vị mang cám hứng lao động và cảm hứng vũ trụ. Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ "rướn thân trắng" gợi tả một cuộc đời trải qua nhiổu mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sác tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, lự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân thương:
"Chiếc thuyền nhẹ hãng như con tuấn mã 
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang 
Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng
 Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."
Nhận xét đánh giá ÆPhải cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiêt tha gắn bó thì mới có thể liên tưởng “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi vốn gần gũi, quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Nhà thơ chợt nhận ra linh hồn của làng chài quê hương trong hình ảnh cánh buồm. Câu thơ vừa vẽ ra chính xác hình thể vừa gợi ra cái linh hồn của sự vật. Tuy nhiên, phép so sánh ở (đây không làm cho việc miêu tả được cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân làng chài còn có thể gửi gắm vào đâu đầy đủ hơn là ở hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi? Nhận xét đánh giá ÆĐứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Phân tích từ ngữ ÆCác từ ngữ: "ồn ào", "tấp nập" diễn tả niềm vui mừng "đón ghe vê". Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của "khấp dân làng". Cảnh "đón ghe về" thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân:
"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến dỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về".
Phân tích từ ngữ ÆNhững tính từ ồn ào, tấp nập toát lên không khí đông vui. Người đọc như thực sự được nhập vào cái không khí ấy, được nghe cả lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên biển lặng để người đi chài trở về an toàn với cá đầy ghe, được nhìn thấy những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật là thích mắt.
Cá "tươi ngon thán bạc trắng" đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng sóng êm, cho "cá đầy ghe", sự cầu mong và niềm tin thánh thiện "nhờ ơn trời" ấy đã biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết:
"Nhở ơn trời, biển lặng cá dầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng".
Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh:
"ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu"...
"Nhờ trời hạ kê'sang đông,
Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi...".
Luận điểm 3: Những câu thơ tiếp theo là ảnh bình yên khi đoàn thuyền trở về. Những chàng trai làng chài có "làn da ngăm rám nắng" khỏe mạnh, can trường được tôi luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển. Phân tích từ ngữ ÆHai chữ "nồng thở" rất thần tình làm nổi bật nhịp sống, lao động hăng say, dũng cảm của những dân chài mang lình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ đẹp lãng mạn:
"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thán hình nồng thở vị xa xăm".
Nét vẽ thứ hai là con thuyền là sau một chuyến ra khơi vất vả trở về, nó mỏi mệt nàm im trên bén. Con thuyền là một biếu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió:
"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".
Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương. Vẫn thấy giàu cảm xúc, mang tính triết lí vồ lao động trong thanh bình. Chữ "nghe" (nghe chất muối) thổ hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Nhận xét đánh giá bình luận ÆĐây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Câu đầu tả làn da ngăm rám nắng của người dân chài theo lối tả thực, câu sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” - thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đậm hơi thở của biển cả, nồng nàn vị xa xăm của đại dương bao la. bình luận ÆCái hay độc đáo của câu thơ là gợi tả linh hồn và tầm vóc của những người con biển cả. Hai câu thơ miêu tả con thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thây con thuyền nằm im trên bến mà còn cảm thây sự mệt mỏi của con thuyền, và còn cảm thấy con thuyền như đang lắng nghe chât muôi của đại dương đang thấm dần trong thớ ưỏ của nó. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muôi mặn của biển khơi. Con thuyên vô tri bỗng trở nên có hồn. Nhận xét đánh giá ÆKhông phải là một người con của vạn chài thiêt tha gắn bó với quê hương thì không thể viết được những câu thơ như thê! Và cũng chỉ có thể viết được những câu thơ như thế khi nh

File đính kèm:

  • doctham_khao_on_hoc_sinh_gioi_ngu_van_thcs.doc