Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bếp lửa"
1/KHÁI QUÁT CHUNG
- Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, thích khai thác những kỷ niệm và ước mơ của tuổi trẻ.
- Ông đã để lại cho đời .trong đó có .
- Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài.
- Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.
2/ Tác phẩm:
a/ Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ :
- Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài.
- Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
b/Mạch cảm xúc và bố cục:
*/Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà.
- Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.
- Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà.
- Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà.
Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.
*.Bố cục: 4 phần.
- Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.
- Khổ 2,3,4,5: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.
- Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà.
- Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bếp lửa"
BẾP LỬA Bằng Việt: 1/KHÁI QUÁT CHUNG Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, thích khai thác những kỷ niệm và ước mơ của tuổi trẻ. Ông đã để lại cho đời.trong đó có.. Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài. Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước. . 2/ Tác phẩm: a/ Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ : Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. b/Mạch cảm xúc và bố cục: */Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà. Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm. *.Bố cục: 4 phần. Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà. Khổ 2,3,4,5: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa. Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà. Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa. c/ Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật: *. Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước. *.Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu. II/PHÂN TÍCH 1/Khổ 1: Dòng hồi tưởng của tác giả về bà được bắt đầu từ một hình ảnh thân thương, ấm áp: bếp lửa. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” Ở đây, điệp ngữ “một bếp lửa” gợi hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình người Việt từ bao đời, nhưng với tác giả có lẽ nó gắn bó vô cùng sâu đậm. Những từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” vừa gợi bếp lửa, vừa gợi cảm xúc: Nó gợi bếp lửa có ngọn lửa bốc cao, tỏa sáng, ẩn hiện giữa làn sương sớm, ấp ủ than hồng nồng đượm nhờ sự khéo léo và tấm lòng ấm áp của người nhóm lửa. Bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong nỗi nhớ, ám ảnh tâm trí làm nhà thơ luôn ấp iu, trân trọng, giữ gìn. Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên ấy đã đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về bà - người nhóm lửa mỗi sớm mai – một hình ảnh trong bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Câu thơ sử dụng ẩn dụ “ nắng mưa” kết hợp với từ “biết mấy” gợi cuộc đời đầy vất vả, lo toan của bà. Chính vì thế trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc nhớ thương bà mãnh liệt. Từ bếp lửa, hình ảnh về và và tuổi thơ được khơi nguồn và sống dậy mãnh liệt. 2/Khổ 2,3,4,5: Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi ấu thơ bên người bà và hình ảnh bếp lửa a/ Khổ 2: Tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn: Bếp lửa đã thắp lên nỗi nhớ, gọi về bao kỉ niệm. Kỉ niệm tuổi thơ lần lượt lên trong kí ức như một thước phim. Đầu tiên là khi lên bốn tuổi: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” Ở đây, hình ảnh quen mùi khói, đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa gầy gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Đó là quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước trong đó có cả tác giả. Những năm tháng ấy gây một ấn tượng sâu đậm để nghĩ lại đến giờ “sống mũi còn cay”. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh lãng mạn bay bổng của một thời ấu thơ mà chỉ toàn những hình ảnh thương tâm, khốn khổ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người. b/ Khổ 3: Kỉ niệm về tám năm ròng kháng chiến sống cùng bà Bố mẹ công tác ở chiến khu, chỉ có hai bà cháu sống cùng nhau ở miền quê. Khi nhớ về kỷ niệm, dòng hồi tưởng của tác giả còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú. Đây là âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim ấy cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ những hoài niệm, nhớ mong. Bởi thế có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 4 lần “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa” “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà - Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Đặc biệt, câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòai trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó đã gợi lên không gian mênh mông, buồn vắng, gợi sự cô đơn của bà khi không có cháu ở bên, gợi cả những vời vợi nhớ thương của cháu về bà. Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu đã gắn bó chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt tám năm ròng.“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”/“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Các từ ngữ như: bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả một cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu. Bà luôn là chỗ dựa vững chắc cho cháu, bà thay thế và lấp đầy tất cả. Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, công thầy. Hạnh phúc của cháu là luôn được sống trong tình yêu thương, đùm bọc trọn vẹn của bà. Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người bà và quê hương c/Khổ 4: là Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý. Mở đầu khổ thơ tác giả viết: “Năm giặcHàng xómĐỡ đần bàVẫn vững lòng” Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập cả không gian ký ức. Mặt khác, từ láy “lầm lụi” còn gợi lên dáng hình của những con người phải chịu đau thương, mất mát, làm cả câu thơ như trĩu xuống. Và nổi bật lên là hình ảnh người bà với một sức sống mãnh liệt và nghị lực bền bỉ. Bởi dẫu túp lều tranh – nơi nương thân của hai bà cháu đã bị đốt rụi, nhưng bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh” Chính từ sự “vững lòng” ấy mà người đọc cảm nhận được góc khuất trong tâm hồn bà: “Mày có viết thư.bình yên” Ở đây, lời bà dặn cháu thật nôm na (mày, kể này, kể nọ, cứ bảo) nhưng vô cùng chân thực, gần gũi và cảm động: hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mất mát, đến mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Chi tiết này cho thấy: Bà không chỉ thương con thương cháu mà còn hiểu được tâm trạng của người con đang đi chiến đấu. Lời dặn ấy còn làm sáng lên là tinh thần yêu nước và sự hi sinh đáng quý của bà và những người phụ nữ VN. Ở đoạn này, bằng giọng kể thủ thỉ, tâm tình, tác giả đã diễn tả dòng cảm xúc miên man của mình về những dấu ấn sâu đậm với người bà thân yêu. Qua đây, tác giả thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và sự biết ơn sâu nặng đối với người bà của mình d/Khổ 5: Hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa Giữa tro tàn, mất mát, đau thương bà vẫn nhóm lửa:“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen” Đến hai câu sau bếp lửa bà nhen ấy không còn là bếp lửa thông thường nữa mà nó chứa ngọn lửa của lòng bà, ngọn lửa của tình thương, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian:“rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ ”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Qua đây ta thấy hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau. 3/ Khổ 6: Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ về cuộc đời bà. Sự tần tảo và đức hy sinh của người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu: “Lận đận nắng mưa” Câu thơ sử dung nghệ thuật đảo ngữ, từ láy “lận đận” được đặt lên đầu câu, ẩn dụ “nắng mưa” kết hợp với từ “biết mấy” đã gợi tả cuộc đời đầy gian truân, vất vả, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt của bà. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh . Trong khổ thơ này, điệp từ "nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ "nhóm" đầu tiên : "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ "nhóm" trong ba câu thơ sau lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Nó cứ bồi đắp dần những nét kì lạ và thiêng liêng của bếp lửa, của bà. Bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những tình cảm sẻ chia, đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước: Nhóm niềm yêu thương..Nhóm nồi xôi Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà còn khơi dậy cả những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về quê hương, đất nước. Từ đó nhà thơ đã có sự khái quát hình ảnh tất cả các bếp lửa: "Ôi kỳ lạ và thiêng liêng- bếp lửa!" : Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa. Tóm lại khổ thơ đã thể hiện được những suy ngẫm vô cùng sâu sắc của cháu về bà và bếp lửa. 4/ Khổ cuối : Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa - Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành: Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống giữa “ngọn khói trăm tàu”, “ngọn lửa trăm nhà”,nhưng vẫn không thể quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương, không quên được những tận tuỵ hy sinh, tình nghĩa của bà Đó là đạo lý thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ. - Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực của cháu về bà. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất. Đúng như nhà giáo dục nổi tiếng người Nga từng khẳng định “muốn dạy cho một đứa trẻ tình yêu đất nước thì trước hết phải dạy cho nó biết yêu cái bậc cửa trong ngôi nhà của mình ở”. Còn nhà văn Pautopxki cũng đã từng để một người lính Nga từ mặt trận viết thư gửi cha mình tâm sự rằng: “khi con xông lên dưới làn đạn quân thù con không chỉ nghĩ rằng mình đang bảo vệ nước Nga mà còn bảo vệ ngôi nhà của chúng ta - nơi có chiếc chuông hỏng treo trên cánh cửa và con mèo già vẫn cuộn tròn trên bệ cửa nhà mình” III/Tổng kết *Nghệ thuật Ở bài thơ này, tác giả đã rất thành công trong việc sáng tạo một hình tượng vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng: Bếp lửa. Mặt khác bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận: giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc, hồi tưởng và suy ngẫm. *. Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.
File đính kèm:
- giao_an_day_them_mon_ngu_van_lop_9_van_ban_bep_lua.docx