Tổng hợp kiến thức trọng tâm môn Ngữ văn ôn thi vào Lớp 10

Đồng chí

 Chính Hữu:

- Là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

- Thơ bình dị, cảm xúc dồn nén, tha thiết, trầm hùng, sâu lắng, hàm súc.

- Đề tài: Chủ yếu là người lính trong hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội. - Tác phẩm ra đời vào đầu năm 1948 thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Sau khi tác giả cùng đồng đội đã tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, đánh bại cuộc tiến công của Pháp lên chiến khu Việt Bắc.

- In trong tập “Đầu súng trăng treo” (1966).

- Đây là một trong những tp tiêu biểu viết về người lính cách mạng thời kì kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) - Phần một: 7 câu thơ đầu - Lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí.

- Phần hai: 10 câu tiếp - Biểu hiện và sức mạnh của tình đc.

- Phần ba: còn lại - Biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người lính cách mạng. Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ cô đọng giàu sức biểu cảm.

 

doc 16 trang linhnguyen 14/10/2022 3040
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp kiến thức trọng tâm môn Ngữ văn ôn thi vào Lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng hợp kiến thức trọng tâm môn Ngữ văn ôn thi vào Lớp 10

Tổng hợp kiến thức trọng tâm môn Ngữ văn ôn thi vào Lớp 10
hắc tc gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm. 
2. Một số bài trọng tâm minh họa: 
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - Phạm Tiến Duật
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Câu 1. Viết đoạn cảm nhận về hình ảnh người lính trong khổ 1,2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Chủ đề: Với hồn thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thành công khi ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời trong hai khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 
- Phân tích cụ thể:
	+ Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
	+ Khi ngồi trong xe: 
	Ung dung buồng lái ta ngồi
	Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng.
 	Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe sẵn sàng đón nhận tất cả những khó khăn trên chiếc xe không kính. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”,”nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh.Thật là một bản lĩnh vững vàng.
	+ Ấn tượng, cảm giác ngồi trong xe: Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
	Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
	Thấy con đường chạy thẳng vào tim
	Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
	Như sa, như ùa vào buồng lái.
	Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Nhịp thơ đều đặn, trôi chảy nhanh gấp như nhịp xe lăn và còn gợi ra tâm hồn phơi phới của những người lính. Với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê để diễn tả rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính.  Các hình ảnh “con đường”,”sao trời”,”cánh chim” diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Câu 2. Viết đoạn cảm nhận về hình ảnh người lính trong khổ 3,4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Chủ đề: Với hồn thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thành công khi ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe với thái độ bất chấp khó khăn hiểm nguy bằng tinh thần lạc quan, sôi nổi trong hai khổ 3, 4 của Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 
- Phân tích cụ thể:
	+ Khó khăn nguy hiểm được cụ thể hóa qua hình ảnh gió, bụi, mưa.
	+ Thái độ của người lính:
	Không có kính, ừ thì có bụi,
	 Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
	Người lính chấp nhận khó khăn, thử thách như một điều tất yếu, người lính bình thản đón nhận khó khăn. Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh, cấu trúc: “không cóừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha”, “mau khô thôi” làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!
Câu 3. Viết đoạn cảm nhận về hình ảnh người lính trong khổ 5,6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Chủ đề: Với hồn thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, nhà thơ Phạm Tiến Duật bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội và lý tưởng đẹp đẽ của những người lính lái xe không kính trong hai khổ 5, 6 của Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 
- Phân tích cụ thể:
	+ Sự khốc liệt của chiến trường: Những chiếc xe từ trong bom rơi
	+ Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính.
	Đã về đây họp thành tiểu đội
	Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
	Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
	Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện sự sẻ chia, cảm thông; thể hiện niềm tin; truyền cho nhau sức mạnh; bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. 
	+ Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
	Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
	Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
	Võng mắc chông chênh đường xe chạy
	Lại đi lại đi trời xanh thêm.
	Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, tình đồng đội đã hóa thành tình cảm gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc.
	+ Gia đình của những người lính xích lại bên nhau trong nhiều cái chung: chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu, hoàn cảnh, nắm cơm bếp lửa,.., và vô vàn khó khăn thử thách chờ đợi phía trước:
	Võng mắc chông chênh đường xe chạy
	Lại đi, lại đi, trời xanh thêm
	Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” diễn tả những cuộc hành trình nối tiếp không ngừng nghỉ, tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
	Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Câu 4. Viết đoạn cảm nhận về hình ảnh người lính trong khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Chủ đề: Với hồn thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính với là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam trong khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 
- Phân tích cụ thể:
	Không có kính rồi xe không có đèn
	Không có mui xe, thùng xe có xước
	Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
	Chủ cần trong xe có một trái tim.
	+ Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. 
	+ Khổ thơ gợi sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ ngoài và vẻ bên trong của những chiếc xe. Đối lập với cái không có ở trên là một cái có. Đó cũng chính là nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bão: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
	+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.
	+ “Trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ vừa là hình ảnh ẩn dụ. Nghĩa hoán dụ để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa, nghĩa ẩn dụ gợi vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của các anh. Đó là tình yêu Tổ quốc như máu thịt, là sự căm thù sôi sục, là kẽ sống cao đẹp mà thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, là lòng dũng cảm, tinh thần lạc quan và bản lĩnh hiên ngang. 
	+ Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.
	+ Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
	+ Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ: 
	“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước 
	Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. 
Câu 5. Viết đoạn cảm nhận của em về hiện thực chiến trường (hình ảnh những chiếc xe không kính) được gợi tả qua ngòi bút của tác giả Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
- Chủ đề: Với hồn thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã gợi tả hiện thực chiến trường qua hình ảnh đoàn xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 
- Phân tích cụ thể: Đoạn mẫu: 
	(1) Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật hiện thực chiến trường khó khăn gian khổ được gợi tả qua hình ảnh những chiếc xe không kính. (2) Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận và ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. (3) Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. (4) Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến, ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. (5) Nhưng vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. (6) Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến: “Không có kính không phải vì xe không có kính / Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. (7) Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường: cả đoàn xe không kính. (8) Lời thơ tự nhiên tựa như một lời nói thường ngày của người lính đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm: dấu vết chiến tranh với bom đạn tàn khốc đã in hình lên những chiếc xe. (9) Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. (10) Câu thơ sử dụng điệp từ “bom” kết hợp với những động từ mạnh “giật”, “rung” đã nhấn mạnh sự tàn khốc dữ dội của chiến tranh. (11) Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có đèn”,”không có mui xe”,”thùng xe có xước”. (12) Biện pháp liệt kê, kết hợp với điệp ngữ “không có” diễn đạt trạng thái trần trụi của những chiếc xe, tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. (13) Nhưng hiện thực chiến tranh có dữ dội, tàn khốc đến bao nhiêu thì người lính lái xe vẫn lên đường với một tinh thần dũng cảm, tư thế ung dung, tâm hồn lạc quan, trẻ trung phơi phới; đoàn xe của các anh vẫn vận hành trong mưa bom bão đạn với một nguyên lí đặc biệt: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. (14) Xe chạy vì có động cơ tinh thần: trái tim cầm lái hướng về miền Nam ruột thịt thân yêu. (15) Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và  trở thành biểu tượng cho hiện thực khốc liệt của chiến trường vừa làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe. 
Lưu ý: Nếu đề hỏi chung về hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thì dựa vào chủ đề chính in đậm ở câu 1,2,3,4 để viết. Từ đó khẳng định cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, mà còn gợi ra hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc với tinh thần:
	“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước 
	Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. 
ÁNH TRĂNG - Nguyễn Duy
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Câu 1. Nêu ý nghĩa nhan đề bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
	- Ánh trăng là hình ảnh trung tâm của bài thơ, là vẻ đẹp tinh túy nhất của vầng trăng, là ánh sáng dịu hiền, có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người đến những giá trị đích thực của cuộc sống. 
	- Đặt nhan đề bài thơ là “Ánh trăng”, Nguyễn Duy muốn đề cập đến chủ đề “Uống nước nhớ nguồn”, muốn nhắc nhở con người không được quên quá khứ nghĩa tình.
Câu 2. Các đoạn văn cảm nhận về hình ảnh vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy theo bố cục: 
* Liên hệ: 
	- Nguyễn Duy thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu. “Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, thắm thiết cái hồn cái vía của ca dao, dân ca Việt Nam.Những bài thơ của ông không cố gắng tìm kiếm những hình thức mới mà đi sâu vào cái nghĩa cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi hơi “bụi”, phù hợp với ngôn ngữ thường nhật”. ( Theo “Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ”).	
	- Để gửi gắm “cái nghĩa tình muôn đời của con người Việt Nam” là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” nhà thơ sáng tạo ra hình ảnh nghệ thuật giàu ý nghĩa – vầng trăng trong bài thơ “Ánh trăng”. 
* Đoạn văn về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ:
	Hồi nhỏ sống với đồng
	với sông rồi với bể
	hồi chiến tranh ở rừng
	vầng trăng thành tri kỉ
	+ Hoài niệm gắn với chiều dài của thời gian và không gian từ đồng, sông, bể đến núi rừng Trường Sơn. Không gian được sắp xếp theo trình tự rộng dần thể hiện sự xông pha của con người trong cuộc sống. Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ.
	+ Trong những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”. Nghệ thuật nhân hóa gợi tả trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí, Chính Hữu), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cùng xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê
	+ Cuộc sống trong quá khứ hiện về với những hoài niệm gắn liền với thời chiến tranh: 
	Trần trụi với thiên nhiên
	hồn nhiên như cây cỏ”
	Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” đã tái hiện rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên trong cuộc sống của người lính. Trong cuộc sống như thế người lính “ngỡ không bao giờ quên / cái vầng trăng tình nghĩa”. Câu thơ thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng của người lính. Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành,cả trong hạnh phúc và gian lao. Nhưng từ “ngỡ” đã thể hiện sự bâng khuâng, tiếc nuối, dự báo trước một sự thay đổi lớn lao.
	àTrong những khổ thơ này, trăng trước hết là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Trăng còn là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; là biểu tượng cho quá khứ gian khổ, đẹp đẽ, chẳng thể phai mờ, chô tình nghĩa thủy chung, tri âm, tri kỉ. 
* Đoạn văn về hình ảnh vầng trăng trong hiện tại:
	+ Hoàn cảnh sống thay đổi và thái độ của người lính cũng thay đổi theo:
	Từ hồi về thành phố
	quen ánh điện cửa gương
	vầng trăng đi qua ngõ
	như người dưng qua đường
	Đất nước hòa bình, con người dần xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” là hình ảnh hoán dụ gợi cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại hiện ra: quá khứ sống gắn bó với thiên nhiên, hiện tại thay đổi về địa điểm, đầy đủ tiện nghi hơn, lấp lánh gương kính đèn màu. 
	Vầng trăng vẫn ở khoảng cách rất gần, vần “đi qua ngõ”, vẫn là người bạn chung tình theo sát, đồng hành nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, thờ ơ, bạc bẽo.  Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết: “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”.
	Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm.Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.
	+ Bước ngoặt để bộc lộ cảm xúc: Con người gặp lại vầng trăng trong một biến cố, một tình huống bất ngờ: mất điện, phòng buynh-đinh tối om. Đây là biến cố quen thuộc nhưng có ý nghĩa với nhận thức, tình cảm của con người tạo ra một bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc và thể hiện chủ đề của tác phẩm. 
	Con người “vội bật tung”: vội vàng, khẩn trương rồi bắt gặp vầng trăng vẫn ở đó ngoài khung cửa sổ bằng tình cảm tròn đầy, nguyên vẹn, vẫn thủy chung với người bạn năm xưa. 
	Đảo ngữ “thình lình” báo trước sự gặp gỡ bất ngờ và kì diệu, đảo ngữ “đột n

File đính kèm:

  • doctong_hop_kien_thuc_trong_tam_mon_ngu_van_on_thi_vao_lop_10.doc