Tài liệu tham khảo Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)

Giới thiệu, phân tích, thuyết minh, giải thích, chú giải nhằm l àm cho người đọc

hiểu nđược văn bản một cách toàn vẹn với những chỗ tinh tế, sâu sắc h àm ẩn,

nắm bắt được lớp lang, mạch lạc của tác phẩm.

Giảng là cơ sở để hiểu từ đó giúp cho việc bình có sức thuyết phục.

Bình:

Đánh giá, nhận xét, khen chê với các giá trị của tác phẩm.

Bình tứ thơ, hình tượng thơ tức là thế giới nghệ thuật của thơ, qua đó bình

tài thơ và tâm hồn nhà thơ.

Bình về nhân cách, phẩm chất, bản lĩnh nh à thơ trước cuộc đời.

Bình về kĩ xảo, nghệ thuật của nhà thơ, sự am hiểu từ ngữ, thanh luật của

tác giả (chữ nghĩa, nhạc điệu, nhịp điệu, h ình ảnh).

Bình về ý nghĩa cách tân của nghệ thuật tác phẩ m (sáng tạo độc đáo), tính

dân tộc, tính hiện đại.

pdf 13 trang linhnguyen 07/10/2022 5100
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu tham khảo Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu tham khảo Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)

Tài liệu tham khảo Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)
âu đớp động dưới chân bèo” có thể được hiểu là cá không cắn câu mà lại
“đớp động” dưới chân bèo, trêu ngươi mới tức chứ! Vừa bực mình, vừa buồn cười.
Bởi thế, có cá mà vẫn than thở, có tiếng cá mà vẫn chẳng “ loãng đi nỗi cô đơn và
nỗi đau”. Cảnh rất thực, khơi được đồng cảm nơi người đọc. Bài thơ kết thúc bằng
cái giỡn đùa đầy kịch tính của tạo hoá. Cảnh oái oăm đã tạo nên nụ cười kín đáo,
đôn hậu (phong cách Nguyễn Khuyến). Vui là vui gượng kẻo làNụ cười này được
tạo ra một cách có ý thức, làm vơi nỗi niềm bất đắc dĩ và bất đắc ý của thú vui nhàn
tản.
Câu cá thường than không câu được cá, cá không chịu cắn câu, sao lại than cá
không đớp động, mà lại phải là “đớp động dưới chân bèo”? Cá không cắn câu
nhưng nếu đớp động dưới chân bèo thì thôi không than thở chăng? ! Hay là ông câu
chỉ quan tâm tới chốn chân bèo mà không là chỗ khác, để rồi cá không đớp ở đó thì
buồn? Có ai buồn kiểu đó không? Hay l à Nguyễn Khuyến câu cá bằng bèo, cá
không đớp bèo thì ông buồn chăng? Dù chủ ý thế nào thì câu thơ ra đời và vào cuộc
sống, chịu sự chi phối của logic cuộc sống, nó có đời sống ri êng của nó, người đọc
tất hiểu được nó. Nếu “đâu” ở đây là “đâu đó” thì câu thơ thêm được cả sự, cả tình,
cả hình, cả tiếng. Hồn thơ thanh cao, tứ thơ dồn nén năng lượng . Bức tranh thu
không tĩnh lặng tuyệt đối. Tiếng cá đớp động, sóng gợn lăn tăn, lá v àng đưa vèo
trước gió cho thấy điều đó. Cảnh có động, nhưng động rất nhỏ, rất gọn; động vừa
đủ để góp vào cái phơn phớt sắc buồn của cảnh vật; động vừa đủ để ngân nga vẻ
đẹp tuyệt vời và thanh bình của quê hương đất nước; động để bức tranh thu không
chết, để bức tranh quê hương sống mãi trong lòng bạn đọc.
Cá chỉ đớp động dưới chân bèo, kéo nhà thơ trở về thực tại. Dường như cách kết
thúc này ẩn chứa một nỗi sầu mang mang cô đ ơn, gần như vô vọng của nhà thơ
trước thực tại. Lời thơ đã kết mà ý thơ vẫn tuôn làm lộ ra bầu tâm tư thầm kín. Ta
bất chợt bắt gặp nỗi đau đời của cụ Tam nguyên ở nơi tận cùng chữ nghĩa bài thơ.
58. BỨC TRANH - NGUYỄN MINH CHÂU
Tình huống truyện được đặt ra để nhân vật tự bộc lộ tính cách.
Nhân vật “tôi” (hoạ sĩ) được tác giả đặt vào các mối quan hệ của hoàn cảnh “không
ngờ”, hết sức khó xử đến mức trớ trêu.
Lần thứ nhất: Vừa lạnh lùng từ chối vẽ bức chân dung anh chiến sĩ của một trạm
giao lên trưa hôm trước thì sáng hôm sau lại chính anh chiến sĩ đó đến nhận nhiệm vụ
thồ tranh cho mình vựt qua một chặng đường nguy hiểm.
Lần thứ hai: Từ chiến trường ra, sau khi tham dự triển l ãm và trở thành người
nổi tiếng đã quên khuấy lời hứa đem bức tranh đến trao tận tay ng ười mẹ của anh chiến
sĩ thì bất ngờ gặp lại người chiến sĩ: chính là người đang cắt tóc cho mình.
Hai tình huống ấy là điều kiện tương ứng với hai lần nhân vật “tôi” thức tỉnh.
Lần thứ nhất là can đảm xin lỗi. Lần thứ hai là cật vấn lương tâm, tự phán xét mình.
9. LƯỢM -TỐ HỮU
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng.
Cảm phục và đau xót, thương tiếc trước sự hi sinh của Lượm, nhà thơ như thấy
hồn thiêng của Lượm đang quấn quyện cùng sông núi, hoá thân vào sức sống xanh
tươi của thiên nhiên và đồng lúa quê hương. Hình ảnh “Lúa thơm mùi sữa, hồn bay
giữa đồng” là một hình ảnh vừa tả thực vừa ẩn dụ tượng trưng về ý nghĩa cao đẹp của
sự hi sinh giữa độ xuân xanh của cuộc đời đang có nhiều hứa hẹn.
10. ĐỢI - VŨ QUẦN PHƯƠNG
Anh đứng trên cầu đợi em
Anh đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ.
Chọn chiếc cầu làm nơi chờ đợi là một dụng ý, bởi ở đó có thể thấy r õ nhất về
sự trôi chảy, đổi thay. Nơi đứng đợi (một ngày) từ lạ thành quen, còn người anh đợi
(một đời) đã quen thành lạ. Từ sự chuyển hoá về lượng (thời gian) dẫn đến sự chuyển
hoá về chất ( lạ - quen, quen - lạ ). Sự việc tưởng như phi lí mà lại có lí!
(Đọc văn chính là đọc cho sáng rõ từng ý nghĩa, tình cảm, thái độ, tâm trạng mà
nhà văn định gửi gắm cho người đọc. Đọc là tìm cho ra sự phát hiện mới mẻ độc đáo
của nhà thơ).
11. Uớc gì ta đước là sông
Để ra đến biển là không còn mình
(Lâm Thị Mĩ Dạ)
Theo quy luật sông chảy ra biển là sự hoà nhập giữa hữu hạn và vô cùng . Câu
thơ Lâm Thị Mĩ Dạ rõ ràng có dấu hiệu của sự “vượt ngưỡng’’, thăng hoa cảm xúc,
hàm chứa nhận thức mới mẻ, sáng tạo “rất thơ”.
12. Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
6Sự có mặt của một chữ có thể l àm cho phát ngôn vượt qua những nét nghĩa cơ
sở để xác định đời sống tâm lí, xác định số phận ri êng. Vì thế việc xác nhận đối tượng
thẩm mĩ để tiếp nhận luôn luôn là một thử thách.
Truyện Kiều mở đầu câu chuyện trao duy ên bằng tình huống và những lời lẽ
“đột biến” so với quy ước thông thường của lễ giáo phong kiến. Các từ “cậy”, “chịu ”,
ngồi lên”, “lạy” chỉ hành động được xem là những dấu hiệu nghệ thuật, thông tin thẩm
mĩ gợi tình huống để bộc lộ tình cảm ruột thịt khác thường, một tâm sự vô cùng hệ
trọngẨn sau là tâm trạng xót xa tột độ của Kiều trong lựa chọn ứng xử t ình - hiếu.
13. “Tuổi cao, tóc bạc , cái râu bạc”
Nguyễn Trãi bẻ gẫy câu thơ ở chữ thứ năm và đáng lẽ theo đúng luật thơ phải để
thanh bằng thì Ức Trai đã thay bằng thanh trắc: “cái” . Với dấu sắc này, tức là cái đầu
ngang ngạnh, cái tay hắt ngược chòm râu, tức là tư thế phản kháng, tức là sự không
khuất phục của Nguyễn Trãi. Đấy là giá trị âm thanh của một từ trong thơ Việt Nam;
đấy là ngòi bút, phép thơ, bản lĩnh, thân phận của Nguyễn Tr ãi trong một chữ, trong
một tiếng.
( Xuân Diệu )
14. “Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường”
Câu Kiều diễn tả sự đau đớn khi Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh.
“Ai ’’ở đây là ai? Là số phận nói chung hay còn là chính Kiều? hiểu được điều
thứ hai thì câu thơ không chỉ là lời than than trách phận, mà còn là chính là lời tự dằn
vặt, giày vò mình. Nàng vừa khuyên , vừa tiễn Thúc Sinh về, giờ đã tự đay nghiến
mình, thương Thúc Sinh. Thật là một hình tượng sống động, một ngòi bút sâu sắc.
15. Mã Giám Sinh mua Kiều
 Mã Giám Sinh trong vỏ bọc của nho sinh.
Có thể thấy, khi đến gia đình Thuý Kiều, Mã Giám Sinh đã chuẩn bị rất chu đáo kĩ
càng cho cái vỏ bọc nho sinh của mình. Hắn tự viết kịch bản – thuê diễn viên phụ, tự
mình đạo diễn và sắm vai chính. Nhưng hắn diễn xuất quá tồi ( bởi làm gì có thực tế)
nên chân tướng của kẻ :“Mượn màu kẻ quý người thanh’’ đã bị phơi bày trước bàn dân
thiên hạ. Hắn đích thị là tên nho sinh “rởm” . Thế mới hay những gì không thuộc về
mình, không phải của mình thì có gắng gượng đến mấy cũng chẳng bao giờ th ành
công.
16. Kiều ở lầu Ngưng Bích
Những thanh điệu phong phú của tiếng Việt có khả năng biểu cảm rất lớn. Tám
câu thơ cuối khác hẳn với phần đầu bởi nó đều đ ược bắt đầu với thanh bằng và kết
thúc cũng như vậy. Ở đây lại có sự góp mặt của nhiều từ láy tạo n ên một âm điệu trầm
buồn, chậm rãi, lan toả, rưng rưng. Ấn tượng về nỗi buồn trong lòng Kiều vì thế mà
càng thêm rõ nét. Cả những câu hỏi vang lên không lời giải đáp cũng biểu hiện một
tâm trạng hụt hẫng, quẩn quanh , bế tắc. Kiều đang cố v ùng vẫy thoát ra khỏi thực tại
mà không thể nào thoát được.
717. Kiều gặp Từ Hải
Trong tiếng Việt, phụ âm “đờ” là một phụ âm tạo được ấn tượng về sự mạnh mẽ
(âm thanh tiếng nổ “đùng đùng”, “đoàng đoàng”). Để gây được ấn tượng mạnh về
chân dung của người anh hùng cái thế có cá tính mạnh mẽ, rắn rỏi, dứt khoát, thi hào
dân tộc Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều phụ âm “đờ”. Chỉ một đoạn thơ rất ngắn:
Bỗng đâu có khách biên đình
.
Gươm đàn một gánh, non sông một chèo.
Chúng ta thấy tần xuất của phụ âm “đờ’ là rất lớn. Khi đọc chúng ta cũng cảm nhận
được sự mạnh mẽ , rắn rỏi, dứt khoát từ âm điệu lời th ơ. Đó là sự tinh tế trong việc sử
dụng ngữ âm của tác giả.
18. BÁNH TRÔI NƯỚC - HỒ XUÂN HƯƠNG
Không phải vô cớ mà thi sĩ đã chọn cho bài thơ một cấu trúc như vậy. hai câu thơ
3,4 cùng nói về những nỗi khổ của người phụ nữ đặt liền kề nhau cho ta một ý niệm:
sống trong xã hội phong kiến bạo tàn, người phụ nữ thật lắm nỗi khổ đau, bất hạnh.
Nỗi khổ nọ chất chồng lên nỗi khổ kia như muốn đè sấp người phụ nữ xuống – không
cho họ có cơ may được ngẩng đầu, được đứng dậy sống một cuộc đời b ình thường.
Bài thơ mở đầu bằng vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ và khép lại bằng phẩm
giá tâm hồn. Năm tháng qua đi, cùng với những nỗi khổ đau, bất hạnh (câu 3,4), nhan
sắc người phụ nữ có thể sẽ tàn phai song cái giá trị lớn nhất ở họ - cái không bao giờ
có thể mất đi chính là vẻ đẹp tâm hồn – báu vật của họ, cũng như cái bánh trôi kia – cái
nhân mật màu son mới làm nên sự đậm đà, khác biệt của bánh trôi với các loại bánh
khác. Cả bài thơ cũng chỉ có màu son ở câu kết làm điểm nhấn. Cất cái màu son ấy đi,
bài thơ sẽ chỉ còn lại sắc màu nhợt nhạt.
19. HỊCH TƯỚNG SĨ - TRẦN QUỐC TUẤN
* “Ta thường tới bữa quên ăn.cam lòng”
Tác giả đã dùng những lời lẽ rất tự nhiên, chân thành gần gũi như lời ăn tiếng
nói hằng ngày của nhân dân (thành ngữ, khẩu ngữ), vận dụng điển tích một cách sáng
tạo, dễ hiểu, cách nói khoa trương như ta thường thấy trong văn chương cổ, văn học
dân gian.Tất cả đều đẩy đến mức tột cùng để diễn tả những trạng thái tâm lí mạnh mẽ
nhất. Lời văn vì thế mà đi thẳng vào lòng người, gây được sự đồng cảm, nỗi xúc động
lớn lao. Nó phản ánh tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng - một công dân biết đau cái
nhục lớn, đầy lòng căm thù sôi sục cùng ý chí quyết tâm đánh giặc tới cùng.
Người xưa nói: kẻ nào rút gươm ra một cách hững hờ, kẻ đó có rất ít nhiệt t ình
với sự nghiệp mà anh ta bảo vệ. Ở đây ta thấy Trần Quốc Tuấn đ ã vung gươm một
cách quả quyết để tự làm gương cho chiến sĩ.
* (Cách đối xử của tác giả với tướng sĩ)
Đó là những việc làm rất khôn ngoan. Ông đã khéo léo gợi lại cách đối xử hậu
hĩnh, chu đáo với thuộc tướng thể hiện tấm lòng bao dung, độ lượng, nhân hậu vừa thể
hiện mối quan hệ chủ tớ bền chặt để l àm cơ sở vững chắc cho sự phê phán có lí, có
tình. Điều đó cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là vị tướng giỏi về mặt chiến trận
mà còn rất am hiểu đời sống tâm lí, t ình cảm của tướng sĩ. Ông muốn họ hiểu rằng:
8ông có trách mắng, phê phán họ cũng đều xuất phát từ t ình thương, nghĩa lớn - bảo vệ
quyền lợi cho chính họ.
Có thể nói với đoạn trích, tác giả - người nghệ sĩ tâm hồn- đã gẩy trúng sợi dây
danh dự trong mỗi cây đàn tướng sĩ, khiến chúng cùng rung lên, cùng hoà một nhịp để
tạo nên sức mạnh cộng hưởng, làm bừng dậy hào khí Đông A - sức mạnh quật khởi
của cả dân tộc - yếu tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên Mông lần thứ hai.
20. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO - NGUYỄN TRÃI
 Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày
Thành Đan Xá.đầm đìa máu đen.
Những lời văn với âm điệu trầm buồn nh ư tiếng thở dài não nề, dường như
Nguyễn Trãi đã thấu hiểu được nghịch lí đau lòng của chiến tranh: nó chỉ đem lại
những đau thương chết chóc thảm khóc cho con người. Ví như những người lính phải
bỏ xác nơi đất khách quê người kia, họ trước hết cũng là những con người, họ ra đi bỏ
lại sau lưng quê hương, làng xóm, những người mẹ già, vợ trẻ , con thơ mỏi mắt trông
chờQua đó chứng tỏ tác giả - người đại diện cho tiếng nói của một dân tộc y êu
chuộng hoà bình- có một tâm hồn cao đẹp, một trái tim gi àu cảm xúc nhân đạo.
21. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG - NGUYỄN DỮ
(Phẩm hạnh của Vũ Nương)
Xưa nay, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu vốn không mấy khi được êm thuận.
Vậy mà cách ăn ở của Vũ Nương đến mức bà mẹ chồng đã nói với nàng những lời thật
trân trọng, đầy yêu mến pha cả lòng biết ơn: “ Chồng con nơi xa xôi.con đã chẳng
phụ mẹ”. Đó là phần thưởng xứng đáng cho sự hi sinh tận tâm của n àng. Nó lại càng
có ý nghĩa khi được nói ra vào thời khắc thiêng liêng nhất ( con chim trước khi chết cất
tiếng hót hay, con người trước khi đi xa cất lời nói phải). Lẽ ra với những điều tốt đẹp
như vậy, Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi chồng trở về - đúng như
lời mong ước của bà mẹ chồng – nhưng trong xã hội phong kiến, liệu hạnh phúc có
đến với nàng không?
22. MÂY VÀ SÓNG - TAGO
* “Mẹ ơi!” , mở đầu bài thơ là tiếng gọi thiêng liêng của đứa con bé bỏng ngây thơ, để
bắt đầu câu chuyện tâm t ình của em với mẹ về những giây phút giao cảm thần ti ên của
em với thiên nhiên, với mây và sóng.
Với mây. Trò chơi của em bé quả là hay và thư vị hơn nhiều vì em không chỉ có
mây – chính em là mây – mà còn có trăng - hiện than của mẹ. Không phải chỉ để c ùng
chơi đùa như những người sống trên mây, mà để cùng sống dưới một mái nhà, cho em
được ôm ấp, được tiếp nhận ánh sang dịu dàng. Trò chơi của em bé mang lại cho ta
cảm nhận sự vĩ đại của t ình mệ con. Trong tình cảm ấy đã chứa đựng cả thiên nhiên, cả
vũ trụ. Những hình ảnh thơ thật đẹp, thật tương hợp và hàm chứa bao tình cảm được
tạo bởi trí tưởng tượng kì diệu và tình yêu thiếu nhi nồng nàn của Tago đã sang tạo nên
những vần thơ đẹp nói về hạnh phúc tuổi thơ. Ở đây tình mẫu tử được nâng lên ngang
tầm vũ trụ.
Với sóng.
9“Con là sóng và mẹ là bến bờ
Con lăn, lăn , lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào”
Đoạn thơ kiến lập sự đối chiếu hàm ẩn. Hình ảnh thơ giàu chất triết lí. Không có
bờ làm sao có sóng. Có bờ mới có sóng vỗ bờ. Cũng như có mẹ mới có con. Lúc sóng
vỗ cũng là lúc biển hát. Lúc “ con lăn, lăn ” là lúc mẹ vô cùng sung sướng. Vì thấy
con ngoan và vui chơi là lòng mẹ hạnh phúc. Nhà thơ lấy sóng và bờ để nói với tuổi
thơ bao điều. Câu cuối cùng có nghĩa là mẹ con ta ở khắp nơi, không ai có thể tách rời,
phân biệt , chia cắt, cũng có nghĩa là tình mẫu tử ở khắp nơi , thiêng liêng , bất diệt .
* Bài thơ còn là tiếng thơ hồn nhiên, huyền ảo trong tự nhiên,tuổi thơ của mọi
lứa tuổi và số phận vượt không gian và thời gian.
Nhà thơ đã hóa thân thành em bé ngây thơ nhỏ xíu. Tiếng thơ được cất lên từ
cách nhìn, cách nghĩ, cách nói của em. Và trong thế giới của em, cả thế gian này, vũ
trụ này bỗng được tái lập kì diệu, nên thơ, hư ảo, tuyệt vời. Ta bỗng quên hết, trút hết
mọi nỗi ưu tư, bất hạnh để cùng với em bay trong cõi mộng giữa bao la, vũ trụ tràn
ngập yêu thươngTừ nguồn sức mạnh bí ẩn nào đó, Tago đã hiến dâng cho đời những
hiện tượng thơ lạ lùng đến thế - qua chúng, nhân loại tự phát hiện thêm mình, tự nâng
cao thêm mình để mãi mãi ấp iu giữ gìn những phẩm chất nhân văn đẹp đẽ của chính
mình. Bài thơ là tiếng lòng, đến thẳng với lòng ta và ở mãi trong ta. Đó là khúc hát
kính dâng mẹ.
23. CỐ HƯƠNG - LỖ TÁN
Trữ tình ngoại đề:
“Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì
có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.
Con đường là một hình tượng:
- Con đường mưu sinh phải xa quê.
- Con đường tình nghĩa (thăm quê).
- Con đường đau khổ- hạnh phúc.
- Con đường hi vọng đi lên phía trước.
- Con đường mòn và con đường mới do phá lối mở đường.
- Con đường đến với mỗi người là con đường số phận
- Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng.
(Qua tường thuật chuyện về quê, qua rung cảm trước sự thay đổi tàn tạ ghê gớm
về quê hương, tác giả đã nêu lên tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó
đặt vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới).
24. MỜI TRẦU - HỒ XUÂN HƯƠNG
Câu thơ thứ hai :
“Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
Đây là câu thơ thể hiện phong cách của Hồ Xuân Hương, một phong cách thông
báo độc đáo, hiếm thấy trong văn học trung đại. Lần đầu ti ên và cũng là lần cuối cũng
có thể là lần cuối cùng trong thơ ca trung đại Việt Nam, nhân vật trữ t ình xuất hiện một
cách công khai, đường hoàng “của Xuân Hương”. Đây cũng là cách khẳng định vai trò
của một cá nhân – cá tính, đầy bản ngã trong xã hội phong kiến.
25. BẢO KÍNH CẢNH GIỚI SỐ 3 - NGUYỄN TRÃI
10
“ Rồi hóng mát thuở ngày trường” mới đọc qua câu thơ có vẻ an nhàn, êm
đềm,thanh thoát. Một chế độ xã hội đã suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đ ã bị
vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành từ quan về ở ẩn. Một tấm lòng “cuồn cuộn nước
triều đông” mà đành phải ngồi hóng mát cả ngày để vơi đi tâm sự ( một gánh nặng với
đất nước đang đè nặng lên vai ông ). Câu thơ lấp ló một tâm sự thầm kín, không c òn là
sự nhẹ nhàng, thanh thản nữa.
26. THÚC SINH TỪ BIỆT THÚY KIỀU
* Câu thơ: “ Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh” có thể so sánh với đoạn
thơ trong “ Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
để thấy Nguyễn Du đã sử dụng chất liệu này không có gì mới nhưng hoàn toàn sáng
tạo: “ Ngàn dâu” càng dài càng rộng chừng nào thì niềm tin kia theo đó tỉ lệ nghịch,
càng ít đi chừng ấy. Đến một lúc lá cây mịt mờ kia choán chật cả bầu trời, xóa mờ
điểm nhìn thì niềm tin của người đưa tiễn càng trở nên vô vọng.
* Hình ảnh “vầng trăng” trong “vầng trăng ai xẻ làm đôi” có thể so sánh với
những hình ảnh vầng trăng khác theo suốt cuộc đời Kiều, hoặc so sánh với nh ưng câu
thơ viết về sự trông đợi đến hao mòn cùng vầng trăng trong cảm nhận của người thiếu
nữ trong câu thơ sau của Trương Cửu Linh đời Đường :
“Nhớ chàng như mảnh trăng đầy.
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”.
Nhà thơ này nghiêng về sự mòn mỏi, hao khuyết còn thi hào Nguyễn Du lại
miêu tả vầng trăng qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Trăng vẫn tr òn đầy
nhưng với đôi lứa trong xa cách nên vầng trăng cũng như bị chia cắt trong tâm hồn họ
để mỗi người chỉ còn mang theo bên mình một nửa vầng trăng chia biệt, tê tái mà giữa
nửa này với nửa kia sẽ không bao giờ hợp lại thành vầng trăng tròn đầy như trước kia
nữa.
27. VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
Tiếng sáo “gọi hồn ” Mị.
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đả miêu tả âm thanh của
tiếng sáo đêm xuân như một thứ thuốc “gọi hồn” . Nhà văn đã hơn 6 lần miêu tả các
trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “ tiếng sáo gọi bạn đầu làng”văng vẳng từ xa,
có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp
nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị v à “lửng lơ” bay ngoài đường có
khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm hồn. từng thanh âm của tiếng sáo với
những cường độ và cao độ khác nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần l à tiếng đời, khi là
tiếng lòng cứ không thôi thổn thức, dậy l òng trong lòng Mị. Tiếng sáo là biểu tượng
của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong
những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào
lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại
ngày xưa – cái thời : “ có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Lúc
này đây, Mị cũng như Huệ Chi trong tiểu thuyết “Cửa biển” của nhà văn Nguyên
11
Hồng, cũng đang sống trong mộnh du cứ “ vùng bước đi” theo tiếng gọi huyễn hoặc
thân quen, và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của Mẹ, tiếng gọi của t ình người, tình
đời, tiếng gọi của sự sống. Có thể nói tiếng sáo đ ã trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại
đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong
tâm tưởng. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi Xuân về và men rượu , tiếng sáo đã cộng
hưởng, làm thức tỉnh ý niệm về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nh à văn Tô Hoài đã rất
tài tình khi dung các trừơng độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cun g
bậc tâm trạng, sự sáo trộn trong tâm t ư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội
tâm nhân vật.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Quả pao rơi rồi, tình đầu mất và tuổi xuân của Mị cũng bị đời bỏ v ào cái hố sâu.
Nhưng với bàn tay yêu thương, giàu tình nhân đạo, nhà văn Tô Hoài đã nâng Mị dậy,
giúp Mị tìm lại sức sống ngày xưa.
28. MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG - NGUYỄN MINH CHÂU
Màu sắc trong thơ văn nhiều khi mang một ý nghĩa thật lớn. Nó ám ảnh ng ười đọc,
khiến cho tác phẩm văn học có một sức sống lâu bền, vượt thời gian. Như màu đỏ
trong Cuộc chia li màu đỏ của nguyễn Mĩ, Màu xanh trong Mảnh trăng cuối rừng của
Nghuyễn Minh Châu cũng có một sức ám ảnh thật k ì lạ.
Trong chuyện cô Nguyệt mặc áo màu xanh: “ Cô ta mặc áo màu xanh chít hông
vừa khít” . Nhưng có lẽ không dừng lại nở chi

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_tham_khao_binh_giang_mot_so_diem_sang_tham_mi_tin_h.pdf