Tài liệu ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại Việt Nam
* Tóm tắt truyện:
Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì thế ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến.
- Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo lắng sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không đồng tình với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình.
- Cuối cùng, ông chủ tịch xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cài chính tín làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tất cả mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại Việt Nam
tình thế éo le, trắc trở của chiến tranh nên càng xúc động lòng người. b) Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu - Tình huống: gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. - Diễn biến tâm lí của bé Thu: + Hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét khi mới gặp ông Sáu. + Gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi cha. + Nhất định không chịu nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm to đang sôi, hắt cái trứng có mà ông gắp cho. + Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bò về nhà bà ngoại, khi xuống xuống còn cố ý khua dây cột xuống kêu rổn rảng thật to. Thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngớ vực, lảng tránh, xa cách. Sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh., nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tinh tế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng chưa kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Nó không tin ông Sáu là ba chỉ vì mặt ông có vết sẹo, khác với hình ba mà nó được biết. Qua những diễn biến tâm lí, Bé Thu thể hiện cá tính mạnh mẽ và tình cảm sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. c) Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra ông sáu là cha. - Trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi : ba” và tiếng kêu như tiếng xé, rồi “ nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “ Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “ Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nói, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai bó nhỏ của nó run run”. - Sau khi được bà ngoại giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Thu dường như đã ân hận, hối tiếc. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của một đứa trẻ cá tính, hồn nhiên, ngây thơ. 3. Kết bài : - Khẳng đinh lại vấn đề. - Thái độ tình cảm tài năng của tác giả NQS. Ví dụ: - Truyện đặt nhân vật bé Thu vào tình huống gặp ba nhưng không nhận ra, khi nhận ba lại vào đúng lúc chia tay để bộc lộ diễn biến tâm lý và tình cảm sâu sắc bé Thu dành cho ba. Từ đó, nhân vật bé Thu hiện ra thật có tình, yêu ghét rõ ràng, nhưng cũng thật hồn nhiên, trong sáng. - Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí bé trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. \Đề 2: Phân tích nhân vật ông Sáu trong đoạn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. 1. Mở bài Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ, tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất ác liệt. - Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh của chiến tranh. Trước hết, đó là câu truyện về một người cha – người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và cũng là người cha rất yêu thương con. 2. Thân bài a) Ông Sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm - Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp 7-8 năm chưa một lần về thăm nhà mặc dù nhớ nhà, nhớ vợ con khôn xiết. Người chiến sĩ ấy đã luôn đặt nhiệm vụ đối với Tổ quốc, với kháng chiến lên trên tình cảm riêng tư. - Trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã bị thương, vết sẹo làm khuôn mặt không giống như trước. - Sau đợt nghỉ phép, ông Sáu cùng đồng đội trở lại chiến trường miền Đông tiếp tục chiến đấu. - Một ngày cuối năm năm mươi tám, trong một trận càn lớn của quân Mĩ- ngụy ông Sáu đã bị thương nặng và hi sinh. Như vậy, ông Sáu là người chiến sĩ có lòng yêu nước, dũng cảm, luôn biết hi sinh vì độc lập dân tộc. Đó cũng là vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, của con người Việt Nam trong những năm chiến tranh đau thương mà anh dũng.\ b) Ông Sáu là người cha rất yêu thương con * Tình huống thứ nhất : Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp sau 7-8 năm được về nhà thăm nhưng bé Thu lại không nhận ba. - Nỗi khao khát gặp con của ông Sáu. + Hai cha con không hề biết mặt nhau, chỉ biết qua tấm ảnh cách đó bảy năm. Vì vậy, ông Sáu hồi hộp và mong chờ được gặp con bằng tất cả tình cảm yêu thương mà ông đã dồn nén trong xa cách. + Bằng linh cảm của người cham, ông đã nhận ra con – đứa bé độ tám tuổi đang chơi dưới bóng cây xoài trước nhà, ông chạy ngay đến chỗ con. Nhưng bất ngờ. Nhưng bất ngờ Thu hoảng sợ bỏ chạy, không chịu nhìn nhận cha mình. Lúc đ, “ Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Ông Sáu hụt hẫng, đau đớn khi đứa con không nhận ra mình. - Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà. + Ông Sáu tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật chất lẫn tinh thần “ suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”. Ông tìm mọi cách để gần gũi để trò chuyện với con nhưng dù phải mới ba ăn cơm hay nhờ chắt nước nồi cơm. Thu đều lảng tránh không gọi một tiếng “ ba”. Vui vì gặp lại gia đình, vợ con, nhưng ông Sáu đau khổ lắm, những lúc con lảng tránh, ông chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”, cười “ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được”. + Bị con đối xử lạnh nhạt, ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra và gọi tiếng “ Ba” âu yếm. Bé Thu đã từ chối sự quan tâm của ông Sáu, bé “hắt đổ miếng trứng cá khỏi chén cơm” khiến ông sáu nổi nóng đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận mãi. Tình tiết này cho thấy sự tức giận, thất vọng của ông Sáu khi không làm thế nào để con nhận ba và cũng thể hiện niềm khát khao của người cha muốn được cảm nhận tình cảm của con. - Giây phút cảm động khi bé Thu nhận cha: + Trước khi chia tay gia đình để vào chiến trường, ông Sáu đã rất buồn vì đứa con không chịu nhận mặt cha, nỗi ân hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa trẻ càng xa cách. Nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông “ muốn ôm con, hôn con”, nhưng “ lại sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên ông Sáu chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe khẽ nói - Bất ngờ bé Thu cất tiếng gọi: “ Baaaba!”, tiếng kêu như xé ruột vừa yêu thương, kính trọng xen lẫn hối hận ( bé Thu đã biết “ ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương”), rồi nó chạy thót lại, ôm lấy ba, “ hôn ba cùng khắp”, “ hôn cả vết thẹo dài trên má”, nó dang cả hai tay xiết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó để níu giữ. Ông Sáu đã xúc động đến khóc, và “ không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Hai cha con nhận ra nhau thật hạnh phúc, sung sướng nhưng cũng thật đớn đau bởi giây phút đó thật ngắn ngủi. Tình cảm cha con thiêng liêng cao đẹp nhưng đặt trong một hoàn cảnh thật éo le của cuộc chiến tranh với những chia li, xa cách. * Tình huống thứ 2: ông Sáu làm cây lược tặng con nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh. Tình huống này đã bộc lộ tình yêu con sâu nặng của người cha. - Ở chiến khu, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông luôn suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận. - Lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây Lược nghe Ba!”, đã thúc đẩy ông nghĩa đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Khi tìm được khúc ngà ông vô cùng vui mừng, sung sướng, rồi đánh hết tâm trí, công sức vào việc vào việc làm cây lược: “ những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược , thận trọng, ti mỉ và cố công như người thợ bạc”. - Ông làm cây lược bằng tất cả tình yêu thương con, trên sống có khắc một hành chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn, khắc từng nét: “ Yêu nhớ tặng Thu con của Ba”. Những đêm nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần chải tóc như vậy là mỗi lầm ông Sáu gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Chiếc lược ngà đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách. - Nhưng trong một trận chiến đấu, ông đã bị thương nặng. Trước lúc hi sinh, không thể trăng trổi được điều gì, ông có trao cây lược cho người đồng đội và chỉ đến khi tin rằng chiếc lược đó sẽ đến tận tay bé Thu ông mới nhắm mắt. Qua ánh mắt nhìn đồng đội lúc lâm chung, bác Ba hiểu không chỉ mang cây lược về cho Thu mà còn trao lại một tình cha con thiêng liêng cao đẹp. Một tình cha con không bao giờ chết! - Sau nhiều lần tìm Thu không gặp, tình cờ bác Ba gặp Thu, bấy giờ là môt cô giao liên trên một tuyến đường bí mật. Bác trao cho Thu cây lược ngà mà người cha yêu quý nhất đã tự tay mình làm và gửi tặng con gái “ Cây lược như đánh thức kỉ niệm ngày chia tay” Như vậy, cả cuộc đời người cha đã dành cho con một tình cảm yêu thương sâu nặng. 3. Kết bài : - Xây dựng nhân vật ông sáu, tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống éo le để khai thác những diễn biến tâm lí, tình cảm; ngôn ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc, chi tiết cụ thể giàu biểu cảm - Truyện đã ca ngợi ông sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha có tình thương con sâu nặng và cao đẹp. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm cha con là thứ tình cảm nhân bản bền vững, có thể tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào; đồng thời cũng cho thấy những nỗi đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người. Đề 3: Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. 1. Mở bài Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ. Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc chiến tranh chống mĩ đang rất ác liệt. - Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. 2. Thân bài a) Chiến tranh đã khiến cho gia đình ông sáu cũng như bao gia đình Việt Nam phải lâm vào cảnh ngộ chia li. - Theo tiếng gọi của non sông, ông Sáu cũng như bao người dân Nam Bộ sẵn sàng rời xa gia đình lên đường đi kháng chiến khi bé Thu, con gái ông, chưa đầy một tuổi. Suốt những tháng ngày xa cách, con ông chỉ biết cha qua tấm ảnh, qua lời kể của người mẹ. - Kháng chiến chống Pháp kết thúc, cha con, gia đình gặp nhau, đoàn tụ chỉ có ba ngày để bù lại tám năm ròng xa cách. Nhưng trong những ngày phép ngắn ngủi ấy, họ chưa kịp nhận ra nhau, khi nhận ra nhau lại là lúc phải tiếp tục chia xa. - Cuộc chia tay lần thứ hai của cha con ông Sáu là chi li mãi mãi. Ông Sáu tiếp tục đi chiến đấu và mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, hai cha con chẳng bao giờ được gặp lại, được ở bên nhau nữa. b) Chiến tranh không thể chia cắt nối tình cảm gia đình, tình cha con. Tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu dành cho nhau trong cảnh ngộ éo le, trắc trở của chiến tranh được thể hiện vô cùng cảm động. - Bé thu thể hiện tình yêu ba theo cách thật đặc biệt + Thu xa cách, ngờ vực, lạnh nhạt ngay từ giây phút đầu tiên gặp ba. - Tỏ ra ương ngạnh, hỗn xược với ông Sáu trong suốt ba ngày ông nghỉ phép, Thu từ chối mọi sự chăm chút, vỗ về của ông sáu; cố tình lảnh tránh tiếng “ba” để bảo vệ người cha trẻ đẹp trong tấm ảnh chụp trung với má của em. Hành động, phản ứng của bé Thu rất cá tính, có phần ương ngạnh nhưng xuất phát từ tình yêu thương ba một cách ngây thơ, trong sáng, chân thật. Thu chỉ yêu, chỉ nhận người cha giống với bức hình trong tấm ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ông Sáu như thế là cách em yêu thương ba mình nồng cháy, yêu thương đến mực tôn thờ, yêu đến mức chỉ khắc ghi bóng một người ba duy nhất trong tim, không ai có thể thay thế được. + Được bà ngoại giải thích: Thu hiểu ra mọi sự nhầm lẫn của mình từ vết sẹo trên má của Ba, Thu đã chủ động bày tỏ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt với ông Sáu trong tiếng gọi “ Ba” như tiếng xé, trong những cử chỉ vồ vập, hối hả thể hiện tình cảm yêu ba chân thành, sâu sắc mãnh liệt. - Ông Sáu dành cho con tình yêu thương vô bờ nhưng hết sức thầm lặng, + Xa con, ông luôn nhớ con, ngắm con qua ảnh, háo hức được trở về thăm nhà, thăm con. + Hạnh phúc làm cha trào dâng, không kìm nổi xúc động khi gặp lại con + Tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật chất lẫn tinh thần. Bị con đối xử lạnh nhạt. Ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra và gọi tiếng “ba” âu yếm, Khi không thể nào kìm chế được sự tức giận. Vì thất vọng không làm thế nào để con nhận ba, ông đã đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận mãi. + Hạnh phúc đến rơi lệ khi con nhận ra ông, khi nghe tiếng gọi “ ba” từ miệng con. + Xa con, sống trong gian khổ, hiểm nguy luôn rình rập, ông luôn nhớ lời con dặn về canh cánh bên lòng về món quà con dặn. Ông dồn hết tình thương, nỗi nhớ vào việc làm cho con một chiếc lược bằng ngà voi trong những lúc rảnh rỗi. Chiếc lược ngà là cầu nối tình cảm cha con ông,, chiếc lược ngà mang bóng hình đứa con gái bé bỏng, xoa dịu trong ông Sáu nỗi đau xa cách con. Tiếp cho ông niềm tin, sức mạnh trên mỗi ngả chiến trường. Chiếc lược ngà là minh chứng cho tình cha sâu nặng ông Sáu dành cho con, là kì vật mộc mạc, thiêng liêng của tình phụ tử. + Biết không thể trở về trao chiếc lược cho con, ngay cả trong giờ phút hấp hối ông sáu vẫn không quên lời dặn của con lúc chia tay. Ông đã dồn tất cả sinh lực cuối cùng vào cử chỉ móc chiếc lược ngà để trao cho đồng đội để cậy nhờ, ủy thác cho bác Ba thay ông đem cây lược về trao tận tay cho con gái. Ông Sáu đã vĩnh viễn ra đi, chiến tranh, bom đạn kẻ thù đã cướp đi sinh mạng ông nhưng chiếc lược ngà vẫn ngày ngày theo bác Ba dõi tìm Thu trên mỗi ngả chiến trường. Tình cha con của ông Sáu không bao giờ chết, nó sống mãi trong chiếc lược ngà giản dị mà thiêng liêng. 3. Kết bài : - Đánh giá sức hấp dẫn trong nghệ thuật kể chuyện: Cách tạo tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, lựa chọn ngôi kể thích hợp, ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên đậm sắc màu Nam Bộ, cách miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế. - Khẳng định và liên hệ: Câu chuyện chiếc lược ngà còn âm vang mãi trong lòng người đọc bởi nó là bài ca bất diệt về tình phụ tử thắm thiết, sâu nặng. Câu chuyện giúp người đọc suy ngẫm và thấm thía hơn về quá khứ đau thương của dân tộc, thấm thía nỗi đau thương, mất mát, éo le do chiến tranh gây ra khiến bao gia đình phải chịu cảnh tan nát, chia lìa. Đồng thời cũng giúp mỗi người biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc gia đình mình đang có. Đề bài: Viết bài văn nghị luận trình bày cảm nhận của em về đoạn văn sau: “...Tôi hãy còn nhớ buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn đọng lại trên lá, rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm............................................................................ Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh. - Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu. Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi. (Trích Chiếc lược ngà- Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục) Dàn bài: 1. Mở bài: Gồm có các ý sau: + Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản. + Giới thiệu đoạn trích. Ví dụ như sau: - Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ. Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. - Đoạn trên nằm ở phần sau của của truỵện, kể về những ngày trở lại chiến trường của ông Sáu và cái chết đầy bất ngờ, xúc động của ông; qua đó, cho ta cảm nhận rõ nét về tình yêu vô bờ bến ông dành cho con. 2. Thân bài: Lần lượt đi đưa ra các luận điểm và chứng minh. a) Cảnh ngộ của cha con ông Sáu - Bé Thu- đứa con gái duy nhất của ông Sáu được sinh ra và lớn lên khi ông biền biệt xa nhà đi chiến đấu. Sau tám năm, ông được trở về thăm nhà với biết bao mong chờ, hạnh phúc vì được gặp con. Nhưng trớ trêu thay, suốt ba ngày, con bé kiên quyết không nhận ông là cha bởi vết thẹo trên mặt khiến ông khác hẳn người đàn ông trong bức hình chụp chung với má nó.Chỉ đến khi được ngoại tháo gỡ, khi ông phải từ biệt mọi người để trở lại chiến trường nó mới chịu gọi ông là “ba”. Cha con ông nhận nhau, từ biệt nhau trong nước mắt. Ông đã hứa sẽ làm tặng Thu một chiếc lược ngà. b, Đoạn trích là câu chuyện về tình phụ tử thiêng liêng. - Niềm hạnh phúc của người cha khi làm chiếc lược tặng con + Ông Sáu không giấu nổi niềm hạnh phúc khi tìm được khúc ngà, liền “ hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.” + Ông tỉ mỉ làm chiếc lược bằng tất cả say mê và yêu thương: “ lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.” + Ông khắc lên đó tình yêu và nỗi nhớ con không nguôi: “ Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. + “ Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hối hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con.” - Sự hi sinh của ông Sáu. + Ông mất khi chưa kịp trao chiếc lược cho con, khi mới chỉ được gặp con duy nhất một lần trong đời. + Giờ phút cuối, ông khong dành cho mình mà cho con- ông gửi lại đồng đội chiéc lược với thỉnh cầu bằng đôi mắt tha thiết, nhờ trao tận tay chiếc lược cho con. => Viên đạn của kẻ thù khiến ong phải từ giã cõi đời nhưng tình yêu thương con vẫn còn mãi mãi. - Ý nghĩa của hình tượng chiếc lược ngà: + Đó là tất cả tình yêu thương, nỗi nhớ và cả sự ân hận vì đã lỡ đánh con của ông Sáu. + Là kỉ vât thiêng liêng, là chiếc cầu nối giữa cha con ông Sáu. + Là biểu tượng cho tình cha con bất diệt, không gì ngắn cản được. c, Nghệ thuật kể chyện đặc sắc - Xây dựng tình huống truyện éo le, đau xót và đầy bất ngờ. - Lựa chọn ngôi kể thứ nhất- lời kể tỉ mỉ của một người chứng kiến toàn bộ câu chuyện cùng giọng văn trầm lắng, đậm chất suy tư làm tăng sự khách quan, chân thực của truyện và tạo sự ám ảnh trong tâm trí người đọc. - Xây dựng hình ảnh có tính biểu tượng cao. 3. Kết bài - Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “ Chiếc lược ngà” nói chung đã kể cho chúng ta câu chuyện vô cùng cảm động về tình phụ tử thiêng liêng trong thời chiến. Qua đó, ta nhận ra một thông điệp thật ý nghĩa: Chiến tranh là kẻ thù của tình yêu và hạnh phúc! Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn văn sau: “ Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi.............................. ...............................................................vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. ( Trích Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng) Dàn bài: 1. Mở bài: Gồm có các ý sau: + Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản. + Giới thiệu đoạn trích. Ví dụ như sau: - Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ. Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. - Đoạn trên kể về cảnh bé Thu nhận ra cha trong giờ khắc chia tay, thể hiện tình yêu cha sâu sắc, mãnh liệt của cô bé. 2. Thân bài: Lần lượt đi đưa ra các luận điểm và chứng minh. a) Cảnh ngộ của cha con ông Sáu - Bé Thu- đứa con gái duy nhất của ông Sáu được sinh ra và lớn lên khi ông biền biệt xa nhà đi chiến đấu. Sau tám năm, ông được trở về thăm nhà với biết bao mong chờ, hạnh phúc vì được gặp con. Nhưng trớ trêu thay, suốt ba ngày, con bé kiên quyết không nhận ông là cha bởi vết thẹo trên mặt khiến ông khác hẳn người đàn ông trong bức hình chụp chung với má nó.Chỉ đến khi được ngoại tháo gỡ, khi ông ph
File đính kèm:
- tai_lieu_on_tap_ngu_van_lop_9_chuyen_de_truyen_hien_dai_viet.doc