Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học Ngữ Văn cấp THCS
Hiện nay, giáo dục và đào tạo đã và đang tiếp tục coi trọng đổi mới phương
pháp dạy học, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Môn Ngữ văn là một môn khoa học có tính đặc thù, giàu tính nhân văn sâu sắc. Học văn không chỉ để cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương mà còn học cách làm người. Vì vậy, người dạy văn, học văn giống như người lao động nghệ thuật, không chỉ tìm hiểu, khám phá, cảm nhận, mà còn phải nhập thân, biến kiến thức văn chương thành máu thịt, một phần đời sống không thể thiếu của mình. Muốn vậy người giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực sự được sống, được tham gia, được khám phá và cảm nhận vẻ đẹp kiến thức văn chương qua mỗi tác phẩm trong nhà trường.
Ở cấp THCS, chương trình Ngữ văn mang tính đồng tâm, lặp lại và tiếp nối một số kiến thức đã học ở Tiểu học. Bởi vậy trong quá trình dạy học nếu giáo viên không biết cách khám phá, khai thác kiến thức và những hiểu biết đã có của học sinh để nâng cao trình độ nhận thức, để áp dụng cách thức tổ chức dạy học đúng đối tượng sẽ gây ra sự nhàm chán, nhạt nhẽo đối với học sinh vì các em nghĩ rằng mình phải học những điều đã biết rồi. Tuy nhiên, theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học thì yêu cầu của việc tiếp cận và khai thác kiến thức môn Ngữ Văn khác hẳn với yêu cầu mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Một trong các yêu cầu phải đặt ra đối với giáo viên là phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học nhằm xây dựng lớp học thân thiện, hướng dẫn học sinh tiếp nhận, khai thác kiến thức một cách tích cực, hứng thú và chủ động, sáng tạo, đúng đặc thù của phân môn Văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng. Học sinh từ những văn bản được học sẽ tiến tới tự biết cách dùng từ đặt câu và cao hơn là có kĩ năng tự tạo lập được văn bản theo yêu cầu, biết nhận biết và bước đầu sử dụng được các biện pháp nghệ thuật trong sáng tạo văn chương từ đó không chỉ cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn chương mà còn tiến tới sáng tạo ra các tác phẩm có giá trị nghệ thuật. Trên cơ sở nắm vững đặc trưng bộ môn của từng khối lớp, giáo viên phải là người hướng dẫn, tổ chức, định hướng cho học sinh từng bước tiếp cận, đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương một cách tự nhiên, say mê, hứng thú. Bằng nhiều hình thức khác nhau, người thầy cần tạo cho học sinh những cơ hội để được đọc, được cảm, được suy ngẫm được vận dụng, được sáng tạo.giáo viên không thể làm hộ, làm thay cho trò để trò bắt chước theo.
Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo
viên và học sinh trong các tình huống hoạt động nhằm thực hiện giải quyết một
nhiệm vụ, nội dung cụ thể. Để đáp ứng các kĩ thuật trong dạy học đạt hiệu quả, tích cực hoá học sinh, ngoài việc tuân thủ các quy trình mang tính đặc trưng của kĩ thuật dạy học còn đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và nghệ thuật sư phạm của
người giáo viên. Một kỹ thuật dạy học nào đó tự nó không tích cực hay tiêu
cực. Đồng thời kỹ thuật nào cũng gắn liền với người sử dụng nó. Cho nên, một
kỹ thuật dạy học có phát huy được tính tích cực học tập của học sinh hay
không còn tuỳ thuộc vào năng lực của người giáo viên sử dụng nó. Tức là, bất kì cách thức tổ chức dạy học nào được thực hiện tạo nên những "chấn động", khiến các em có những vận động trí tuệ, cảm xúc đều là kỹ thuật dạy học tích cực. Vận dụng các phương pháp dạy học thế nào, phát huy được tính tích cực của học sinh hay không và phát huy đến mức độ nào là tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vào khả năng tổ chức học sinh hoạt động học tập của giáo viên nhằm phát triển năng lực sáng tạo và tư duy tích cực cho các em học sinh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học Ngữ Văn cấp THCS
c trong chương trình Ngữ văn 6, 7. Khả năng liên tưởng và tưởng tượng của các em khá linh hoạt. Khả năng ghi nhớ tái hiện hình tượng văn học đã được hình thành. Nhìn chung đa số học sinh có khả năng độc lập, tích cực trong học tập bộ môn, phát huy tương đối tốt các năng lực cần đạt giành cho học sinh khối 6,7. b. Những hạn chế: * Về phía giáo viên: Hiện nay việc đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học trong dạy và học môn Ngữ văn vẫn còn hạn chế, đa số giáo viên giảng dạy trong các trường ít khi đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học trong các tiết dạy. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, cả trong nhận thức lẫn hành động, cả trong khả năng và sự nhiệt tình của giáo viên - Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ . - Nhiều giáo viên ngại đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học do tốn thời gian, công sức. - Một số giáo viên đã cố gắng đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học vào giảng dạy, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức và mang nặng tính chất trình diễn. *Về phía học sinh: Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ có đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học. Nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: - Tôi cũng nhận thấy những khó khăn khi vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực khi giảng dạy là một số học sinh vẫn còn thụ động, chưa hòa nhập, chưa tích cực học tập và hoạt động chưa tốt. Một số học sinh chỉ thực hiện yêu cầu khi có sự thúc ép của giáo viên. - Các em dễ hứng thú, tích cực nhưng cũng dễ chán nản, thiếu kiên trì với cái mới trong hoạt động học, tìm tòi, khám phá tác phẩm, những năng lực và hứng thú cá nhân chưa bền vững. - Các em chưa ý thức được vai trò việc vận dụng các kỹ thuật dạy học của giáo viên nên vẫn còn một số học sinh chưa chủ động tự giác, thiếu tự tin. Khi học tập theo nhóm, và được giao nhiệm vụ cụ thể các em còn ỷ lại, trông chờ vào các bạn trong nhóm khi đưa ra ý kiến cuối cùng; đôi khi các em còn lợi dụng hoạt động thảo luận để nói chuyện, làm việc riêng - Các em chưa tự tìm hiểu để lĩnh hội cảm nhận tác phẩm, còn ngại ngần, e dè khi bày tỏ quan điểm cá nhân với thầy, với bạn. Đó cũng là những nguyên nhân ảnh hưởng tới việc vận dụng các kỹ thuật dạy học trong giờ dạy. Từ thực tế đó, bài kiểm tra đầu tiên của học sinh ở cấp THCS cho thấy học sinh còn hạn chế nhiều về kĩ năng diễn đạt, dùng từ đặt câu, kĩ năng trình bày một vấn đề còn lúng túng, còn sai nhiều lỗi chính tả, dấu câu.... Kết quả đạt được chưa cao. TT Lớp Năm học Sĩ số HS Kết quả Khá - Giỏi Trung bình Yêú SL % SL % SL % 1 7B 2015 - 2016 35 20 57,1 10 28,6 05 14,3 2 6B 2016 - 2017 32 15 46,9 10 31,2 07 21,9 3 6E 2017 - 2018 35 12 34,3 20 57,1 03 8.6 4 7D 2018 - 2019 35 25 71,4 08 22,9 02 5,7 Trước thực trạng trên, để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập nhằm điều chỉnh kết quả học tập của mình tôi đã chủ động, linh hoạt trong vận dụng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, đặc biệt là việc vận dụng sáng tạo các phương pháp, kỹ thuật dạy học vào giảng dạy các giờ học Ngữ văn. Tôi đã từng bước tháo gỡ những khó khăn, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp và đã ít nhiều thành công trong việc vận dụng các kỹ thuật dạy học trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn. 2.2. Các giải pháp Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. Việc đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học môn Ngữ văn giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng, đa dạng hoá việc cung cấp kiến thức cho học sinh, có thời gian thảo luận và tăng cường kiểm soát đối với học sinh...nhờ vậy mà giờ học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. Đối với học sinh, việc học tập môn Ngữ văn sẽ hứng thú hơn, các em được tự mình tiếp cận và nhận thức kiến thức một cách cụ thể và toàn diện. Bài học môn Ngữ văn sẽ sống động , gần hơn với các em. Từ đó khơi gợi, kích thích quá trình tư duy của học sinh, nội dung kiến thức môn Ngữ văn được học sinh lĩnh hội đầy đủ và in sâu hơn vào trong trí nhớ của các em. Giáo dục học sinh hình thành các kĩ năng học tập, kỹ năng sống, những giá trị sống cần thiết, linh hoạt xử lí các tình huống trong cuộc sống thông qua việc vận dụng các kỹ thuật dạy học trong tiết dạy. Có rất nhiều các kỹ thuật dạy học khác nhau, việc vận dụng kỹ thuật dạy học nào để mang lại hiệu quả cao nhất phụ thuộc vào sự linh hoạt và nghệ thuật sự phạm khéo léo của người giáo viên. Trong khuôn khổ sáng kiến này, tôi xin được đưa ra một số kỹ thuật dạy học tích cực mà bản thân tôi đã sử dụng trong giảng dạy và bước đầu mang lại hiệu quả giáo dục trong bộ môn Ngữ văn. - Kỹ thuật công não (động não) - Kỹ thuật chia nhóm - Kỹ thuật KWL (KWLH) - Kỹ thuật trình bày 1 phút - Kỹ thuật 3 lần 3 - Kỹ thuật khăn phủ bàn - Kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy (lược đồ tư duy) 2.2.1. Kỹ thuật công não (động não) Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra "cơn lốc” các ý tưởng). Kỹ thuật động não do Alex Osborn (Mỹ) phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn Độ. * Ứng dụng - Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề; - Tìm các phương án giải quyết vấn đề; - Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau. * Các bước tiến hành 1. Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề 2. Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau. 3. Kết thúc việc đưa ra ý kiến. * Minh họa 1: Dạy bài “Sơn Tinh, Thủy Tinh” - Ngữ văn 6 (Tập 1) Hoạt động 1: Khởi động - Thời gian: 3 phút - Mục tiêu: Tạo tâm thế học tập cho học sinh, biết được sơ bộ nội dung bài học đề cập đến. - Hình thức tổ chức: HĐ cá nhân, nhóm. - Phương pháp: Vấn đáp, thuyết trình,nghiên cứu trường hợp điển hình - Kĩ thuật: công não * HS thực hiện (Chiếu clip(1’) xem xong, đặt câu hỏi cho các bạn trong lớp (từ 3 đến 4 bạn HS trả lời) ? Đoạn phim ngắn này cho bạn biết thông tin gì? Bạn có suy nghĩ như thế nào sau khi xem xong đoạn phim? * Định hướng HS trả lời: - HS1: Đoạn phim về hiện tượng mưa bão, lũ lụt ở Sơn La tháng 8 năm 2017. - HS 2: Rất sợ hãi trước sự tàn phá ghê gớm của thiên nhiên, mưa, lũ. - HS3: Cảm thông và chia sẻ với nhân dân ở vùng đất này. - HS4: Vậy chúng ta sẽ làm thế nào để chế ngự được thiên tai bão lũ? * HS điều khiển khái quát lại các ý kiến và mời giáo viên giới thiệu bài học. * Minh họa 2: Dạy bài “Động từ ” - Ngữ văn 6 (Tập 1) Hoạt động 1: Khởi động - Thời gian: 3 phút - Mục tiêu: Tạo tâm thế học tập cho học sinh, biết được sơ bộ nội dung bài học đề cập đến. - Hình thức tổ chức: HĐ cá nhân. - Phương pháp: Vấn đáp, thuyết trình. - Kĩ thuật: công não * GV đặt câu hỏi. ? Tìm các từ chỉ hoạt động bắt đầu bằng chữ “Đ”? * GV gọi HS trong lớp trả lời (gọi HS có đáp án nhanh nhất, phải huy động nhiều ý kiến và HS phải trả lời được liên tục, nối tiếp nhau) - Đáp án: đáp, đi, đợi, đòi, đánh, đấm, đập, đèo, động, đốt, đọc, đội, đuổi, đun, đẽo, đu, đục, đeo. GV cùng HS kiểm tra đáp án rồi giới thiệu bài. Đây là những từ ngữ chỉ hoạt động. Dựa vào kiến thức đã học ở Tiểu học các em hãy xác định các từ trên thuộc từ loại nào? * HS: Động từ. * GV: đồng ý với đáp án của học sinh và cùng các em vào bài học “Động từ”. 2.2.2. Kỹ thuật chia nhóm Trong dạy học hiện đại, để phát huy năng lực học tập sáng tạo của học sinh, khi tổ chức hoạt động theo nhóm, giáo viên nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho các em, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia nhóm mà tôi đã thực hiện và trước tiết học đều hướng dẫn học sinh thành lập trước để đảm bảo yêu cầu về thời gian cho tiết học. * Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm, - GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...) - Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm. * Chia nhóm theo hình ghép - GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số HS muốn có là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số nhóm mà GV muốn có. - HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt. - HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình hoàn chỉnh. - Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm. * Chia nhóm theo sở thích Giáo viên có thể chia học sinh thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm nhà thơ, nhóm hùng biện, nhóm đọc diễn cảm, nhóm chuyển thể kịch bản, nhóm diễn viên * Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm. Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính,....giáo viên cần linh hoạt, tùy thuộc vào điều kiện thực tế bài học và lớp giảng dạy để chia nhóm cho phù hợp. 2.2.3. Kỹ thuật KWL (KWLH) KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. (Trích từ Ogle, D.M. (1986). K-W-L: A teaching model that develops active reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564-570). K : kiến thức / hiểu biết HS đã có; W : những điều HS muốn biết; L : những điều HS tự giải đáp / trả lời ; Lúc mới xuất hiện, kỹ thuật này dùng để dạy đọc hiểu. Hiện nay được dùng trong nhiều môn học => Kỹ thuật KWL phát triển thành KWLH (H : cách thức để HS tìm tòi nghiên cứu mở rộng thêm về chủ đề học) * Mục đích - Học sinh xác định động cơ, nhiệm vụ học tập và tự đánh giá kết quả học tập sau bài học thông qua việc xác định những hiểu biết, kinh nghiệm và kiến thức đã có liên quan đến bài học, xác định nhu cầu về kiến thức mới và đánh giá kết quả học tập của mình sau bài học. Trên cơ sở kết quả thu được học sinh tự điều chỉnh cách học của mình. - Tăng cường tính độc lập của học sinh. - Giáo viên có thể đánh giá được kết quả của giờ học thông qua tự đánh giá, thu hoạch của học sinh. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh cách dạy của mình cho phù hợp. - Tác dụng đối với học sinh: học sinh xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn được trang bị thêm hiểu biết, kiến thức, kỹ năng qua bài học. Qua việc nhìn lại những gì đã học được sau bài học, học sinh phân tích, đánh giá những thông tin mới được hình thành và nhận thức được sự tiến bộ của mình sau bài học. * Cách tiến hành: Bước 1: Sau khi giới thiệu bài học, mục tiêu cần đạt của bài học, Giáo viên phát phiếu học tập “KWL” (Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoặc nhóm học sinh). Bước 2: Hướng dẫn học sinh điền các thông tin vào phiếu học tập. Bước 3: Học sinh điền các thông tin trên phiếu như sau: - Tên bài học (hoặc chủ đề):................ - Tên học sinh (hoặc nhóm học sinh): . - Lớp:Trường:....................... - Yêu cầu HS viết vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội dung bài học hoặc chủ đề. - Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học hoặc chủ đề. Bước 4: Sau khi kết thúc bài học hoặc chủ đề, học sinh điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được. Lúc này, HS xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học. * Ứng dụng - Chọn bài học. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài học mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích - Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em. - Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận. K ( Điều đã biết) W ( Điều muốn biết) L ( Điều học được) H (Điều muốn mở rộng) * Minh họa 1: Dạy bài “ Ôn tập thơ ” - Ngữ văn 9 Mục tiêu: Giúp học sinh nắm một cách hệ thống các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam đã học trong chương trình Ngữ văn 9, có cái nhìn khá toàn diện về nội dung tư tưởng, nghệ thuật các tác phẩm đã học. Sau khi hệ thống kiến thức, phần bài tập xác định các chủ đề có thể sử dụng sơ đồ tư duy KWL theo 4 bước đã trình bày ở trên. Từ những bài thơ đã học, học sinh tập hợp thành từng chủ đề cụ thể và tìm nét tiêu biểu cho từng chủ đề đó. K ( Điều đã biết) Know W ( Điều muốn biết) What L ( Điều học được) Learn Con cò, Nói với con, Bếp lửa, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ... Chủ đề tình cảm gia đình. - Tình cảm gia đình là thiêng liêng, quý giá. - Giọng thơ thiết tha, trìu mến. Đồng chí, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Ánh trăng Chủ đề về người lính. - Vẻ đẹp trong tính cách, tâm hồn, lí tưởng của người lính. - Ngôn ngữ giản dị, chân chất. Mùa xuân nho nhỏ, Đoàn thuyền đánh cá, Sang thu... Chủ đề về quê hương đất nước. - Cảm xúc, niềm vui trước vẻ đẹp của quê hương đất nước, trước cuộc sống mới. - Hình ảnh đẹp, trong sáng. Viếng lăng Bác Chủ đề về lãnh tụ. - Lòng tự hào, kính trọng và biết ơn đối với Bác Hồ. - Nghệ thuật ấn dụ đặc sắc, giọng thơ thành kính. 2.2.4. Kỹ thuật “khăn phủ bàn” Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm cuả cá nhân HS, phát triển mô hình hợp tác giữa các HS. * Mục tiêu: - Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của HS. -Tăng cường tích độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS. - Phát triển mô hình có sự hợp tác giữa HS và HS. * Tác dụng đối với HS: - HS học được cách tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau. - Rèn kỹ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề. - HS đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác. - Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo cơ hội nhiều hơn cho học tập có sự phân hóa. - Nâng cao mối quan hệ giữa HS, tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, học cách chia sẻ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau. - Nâng cao hiệu quả học tập. * Cách tiến hành: - Chia HS thành các nhóm nhỏ và phát cho mỗi nhóm 1 tờ giấy Ao. -Trên giấy Ao chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ nhóm 4 người thì chia thành 4 phần). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. -Thực hiện kĩ thuật “ Khăn phủ bàn” qua 2 giai đoạn: + Giai đoạn HS hoạt động độc lập: Các thành viên trong nhóm ngồi vào vị trí như hình vẽ, hoạt động tư duy tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...), sau đó trình bày ý kiến của bản thân vào ô quy định trong “khăn phủ bàn” độc lập tương đối với các thành viên khác. + Giai đoạn HS hoạt động tương tác: Các thành viên chia sẻ và thảo luận các câu trả lời, sau đó viết ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn * Minh họa 1: Ngữ văn 8- tiết 40 - Tiếng Việt: “Nói giảm, nói tránh”. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập số 2 trong phần “Luyện tập”, tôi đã sử dụng kỹ thuật khăn phủ bàn. Trước hết tôi yêu cầu học sinh xác định yêu cầu bài tậpsố 2. Tôi tiến hành chia nhóm học sinh ( 4 học sinh một nhóm) và các nhóm thực hiện yêu cầu bài tập theo hai giai đoạn Các em hoạt động độc lập, trình bày ý kiến các nhân vào ô quy định Nhóm trưởng tiến hành tổ chức cho các thành viên thảo luận các câu trả lời và đi đến thống nhất, sau đó ghi đáp án vào ô giữa. Kết quả bài tập được minh họa trong sơ đồ sau a2,b2, c2,d1,e2 a2, b1, c1,d1,e2 Đáp án: các câu: a2, b2, c1,d1,e2 a1,b1, c1,d1,e2 a2,b2, c1,d2,e2 * Minh họa 2: Dạy tiết 5 - văn bản : “Thánh Gióng” - Ngữ văn 6. ? Chi tiết Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời có ý nghĩa gì ? 1/ Gióng đánh giặc vì muốn giúp nước, không cần danh lợi nên không muốn ở lại để được vua ban chức tước, bổng lộc. 2/ Gióng được Trời phái xuống, hoàn thành nhiệm vụ rồi nên Trời rút về. 3/ Gióng không phải con người bình thường nên không ở trần gian được. 4/ Gióng không muốn danh lợi * Ý kiến thống nhất sau khi thảo luận : - Là người có công đánh giặc nhưng Gióng không hề màng danh lợi. Người Việt Nam sẵn sàng cống hiến khi đất nước cần, không đòi hỏi quyền lợi. - Việc đánh giặc giữ nước của nhân dân ta được trời đất ủng hộ. 2.2.5. Kỹ thuật “ 3 lần 3” Kỹ thuật “3 lần 3“ là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự tham gia tích cực của HS. * Cách tiến hành - Học sinh được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó - Mỗi người cần viết ra: - 3 điều tốt; - 3 điều chưa tốt; - 3 đề nghị cải tiến. - Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi. * Minh họa: Vậndụng kĩ thuật “3 lần 3 ” khi dạy tiết 49 bài “ Đoàn thuyền đánh cá ” - Ngữ văn 9 - Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tác giả Huy Cận, tôi yêu cầu một học sinh trình bày phần chuẩn bị bài ở nhà của mình. Kết hợp giới thiệu với phần trình chiếu chân dung tác giả và bìa một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. - Tôi yêu cầu học sinh dưới lớp ghi 3 điều tốt, 3 điều chưa tốt, 3 đề nghị cải cách ra giấy - Sau khi học sinh trình bày, tôi yêu cầu một số học sinh dưới lớp đọc phiếu ghi nhận xét 3 điều tốt, 3 điều chưa tốt, 3 đề nghị cải cách. 3 tốt: Trình bày nội dung tương đối đầy đủ; Cách trình bày khoa học, rõ ràng; Phần trình chiếu và thuyết minh nhịp nhàng; Phong cách trình bày tự tin 3 chưa tốt: Chưa giới thiệu về năm phát hành các tập thơ; tên một số tác phẩm thuộc thể loại khác là gì? Phong cách thơ của Huy Cận trước và sau cách mạng có thay đổi gì không? 3 đề nghị: Bổ sung năm phát hành các tập thơ tiêu biểu; tên của một số tác phẩm khác; sự thay đổi trong phong cách sáng tác của tác giả trong thời điểm trước và sau cách mạng như thế nào? - Sau khi giáo viên thu thập các ý kiến cá nhân cảu học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh vừa trình bày ý kiến phản hồi, bổ sung các nội dung chưa tốt. Cuối cùng giáo viên bổ sung những thông tin còn thiếu để hoàn thành phần giới thiệu về tác giả Huy Cận. 2.2.6. Kỹ thuật trình bày 1 phút Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. * Ứng dụng - Trong tiết học, giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp? Tóm tắt nội dung chính của văn bản? - Học sinh suy n
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_mot_so_ki_thuat_day_hoc_tich_c.docx