Ôn thi vào Lớp 10 các văn bản môn Ngữ văn - Chương trình học kì 1

1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

2, Thân bài

a. Khái quát chung

- Hoàn cảnh ra đời

- Tóm tắt

b. Phân tích

* Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết

- Ngay từ đầu truyện Vũ Nương đã được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp nết “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của nàng mà TS đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

-> Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hoạ với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.

Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:

Luận cứ 1: Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.

* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi”, “phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng thất hòa.

-> Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh. Qua đây ta thấy đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.

 

docx 34 trang linhnguyen 19/10/2022 4640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn thi vào Lớp 10 các văn bản môn Ngữ văn - Chương trình học kì 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn thi vào Lớp 10 các văn bản môn Ngữ văn - Chương trình học kì 1

Ôn thi vào Lớp 10 các văn bản môn Ngữ văn - Chương trình học kì 1
gữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính
+ Thủ pháp liệt kê “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã cho ta thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.
+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.
+ Điệp ngữ “nhìn thấynhìn thấythấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.
+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng MN
+ Đặc biệt hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
b.2. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ hiểm nguy của người lính (khổ 3+ 4)
Những gian khổ nguy hiểm đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe TS. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.
- Cấu trúc lặp: “không có, ừ thì” đi liền với kết cấu phủ định “chưa có” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe TS
- Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính TS.
- Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách
- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnhlàm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.
-> Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
b.3. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người lính lái xe (khổ 5+ 6)
Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo: 
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.
- Hình ảnh “Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.
+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự sẻ chia vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
- Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
- Các định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạng phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họh coa cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt.
- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng- đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi
- Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần
- Điệp từ “lại đi lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.
b.4. Lí tưởng cách mạng của những người lính lái xe.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phái trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim
- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.
Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Mọi thứ cảu xe không cò nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước
=> Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
3. Đánh giá chung về nghệ thuật: Với lời thơ mộc mạc gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu ngang tàn, trẻ trung; cách khai thác chất liệu của chiến tranh nhà thơ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo nên một bài thơ với những hình tượng độc đáo.
III. Kết bài: 
- Khái quát lại vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của bản thân
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ – HUY CẬN
Đề: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Dàn ý tham khảo
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát nội dung bài thơ
(Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng ngợi ca vẻ đẹp tráng lệ, kì vĩ, thân thuộc của thiên nhiên và vẻ đẹp của người lao động mới trong công cuộc xây dựng xây chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào trước đất nước, con người và cuộc sống)
2. Phân tích
a. Hai khổ thơ đầu: Đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người đi biển
a.1. Cảnh biển vào đêm: vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người qua những liên tưởng độc đáo.
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
- Tác giả đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc biệt: đó là một điểm nhìn di động được đặt trên con thuyền đang tiến bước ra khơi
- Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”:
+ Tả thực vầng mặt trời đỏ rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại vòng tuần hoàn của một ngày
+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ cảu bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn 
+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá
- Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”:
+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi
+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người.
-> Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời như thế nào.
a.2. Đoàn thuyển ra khơi và tâm trạng náo nức của con người: 
Trên phông nền thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
- Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng của câu thơ:
+ Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi vẫn lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc
+ Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: Đối lập giữa hoạt động của vũ trụ và hoạt động của con người
- Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”:
+ Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người lao động 
+ Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền vượt trùng ra khơi
+ Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm vào trong lời hát
-> Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi
Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chai đã cất cao tiếng hát:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
- Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chai, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu
- Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong câu hát về sự giàu có của biển cả
- Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
+ Cho thấy không khí lao động hang say không kể ngày đêm của người lao động 
+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm
+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng
=>Tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng cảu người dân chài.
b. Bốn khổ thơ giữa: Đoàn thuyền đánh cá trên biển và khí thế của người lao động
b.1. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh động:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển lặng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng mở: chiều cao của gió trăng, chiều rộng của mặt biển và còn cả chiều sâu của lòng biển
- Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với không gian 
+ Cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ.
+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng, con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian này.
+ Hệ thống động từ được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời
=> Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Bức tranh ấy như thâu tóm được cả không gian vũ trụ vào trong một hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc vũ trụ
b.2. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có, phong phú và nâng tấm lòng hào phóng, bao dung của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
- Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá vừa quý hiếm lại vừa ngon của biển cả
- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”:
+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng
+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kì vĩ
- Hình ảnh nhân hóa “cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe”:
+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi
+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt biển khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng 
- Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:
+ Tả nhịp điệu của những cánh sóng
+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống
- Trước sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
+ Hình ảnh so sánh biển “như lòng mẹ”:
. Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự bao đời
. Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài với biển cả quê hương
=>Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình của quê hương đất nước
b.3. Khung cảnh lao động hăng say trên biển
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng, hăng say:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
- Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể, sinh động công việc kéo lưới của những ngư dân
- Hình ảnh ẩn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”:
+ Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động
+ Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu
- Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền:
+ Cho thấy sự giàu có của iển cả quê hương và niềm vui phơi phới của người lao động
+ Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như lóe cá rạng đông. Điều đó cho thấy bút pháp sử dụng màu sắc đại tài của Huy Cận
=> Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên. Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường
c. Khổ thơ cuối: Đoàn thuyền đánh cá trở về
- Đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh bình minh một ngày mới rự rỡ huy hoàng.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy qua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biểu nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng là một âm hưởng, cùng là một lối miêu tả. Những nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy: câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi”
+ Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi thuận lợi và bình yên
 + Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên con thuyền đầy ắp cá
+ Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp khúc của khúc ca lao động
- Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” 
+ Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ.
+ Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ.
+ Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến biển: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.
- Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng” 
+ Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở nên rực rỡ, huy hoàng.
+ Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của thành quả lao động lấp lánh ánh vui.
=> Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người khi làm chủ đất trời 3. Đánh giá chung về nghệ thuật.
3. Đánh giá nghệ thuật
- Bài thơ là sự thống nhất hài hòa giữa hai nguồn cảm hứng: cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ với cảm hứng về người dân lao động đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài.
- Hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn được xây dựng bằng bút pháp khoáng đạt, khoa trương, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo.
- Cách gieo vần linh hoạt, nhịp điệu kết hợp cổ điển và phá cách tạo âm điệu sôi nổi, phơi phới khiến bài thư như một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa.
III. Kết bài: 
- Khái quát lại vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của bản thân
BẾP LỬA – BẰNG VIỆT
Đề: Phân tích bài thơ Bếp lửa – Bằng Việt
Dàn ý tham khảo
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác
- Mạch cảm xúc
2. Phân tích
a. Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa – nơi bắt đầu nỗi nhớ 
* Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được tái hiện:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
- Trước hết, đó là hình ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình tự bao giờ.
- Hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm”:
+ Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm lửa.
+ Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
- Từ “bếp lửa” được điệp lại hai lần:
+ Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy sớm chăm sóc cho chồng, cho con.
+ Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về kí ức
- Từ láy “chờn vờn”:
+ Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện giữa màn sương sớm
+ Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi thơ được sống bên bà của nhà thơ
* Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
- Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng của sự vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà
- Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu
=> Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức đó ùa về khiến người cháu không khỏi xúc động
b. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa
b.1. Những kỉ niệm hồi lên 4 tuổi
* Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi”:
+ Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói
+ Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy.
- Hình ảnh “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” phần nào diễn tả hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của người cha phải bươn chải kiếm sống đủ nghề.
- Hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” là những hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của những con người trong cuộc mưu sinh.
Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa:
“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
- Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.
- Tác giả nhắc đi nhắc lại từ: “mùi khói”, “khói hun” gợi một sự ám ảnh về một thời gian khó

File đính kèm:

  • docxon_thi_vao_lop_10_cac_van_ban_mon_ngu_van_chuong_trinh_hoc_k.docx