Ôn tập văn bản văn học Lớp 9

1. Bốn câu thơ đầu: Tác giả giới thiệu và miêu tả vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

- Hai câu thơ đầu ngắn gọn, hàm súc đã giới thiệu những thông tin cơ bản về hai chị em: cô chị là Thúy Kiều, cô em là Thúy Vân. Họ đều là những người con gái đẹp “tố nga” của gia đình nhà họ Vương.

- Đến hai câu thơ tiếp theo tác giả mượn hình ảnh thiên nhiên là “mai” và “tuyết” để khắc họa vẻ đẹp chung của hai chị em. Vẻ đẹp ấy toát ra từ cốt cách bề ngoài, thanh thoát như thân cây mai còn tinh thần, tâm hồn trong trắng như tuyết. Dùng hình ảnh thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người là bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng thường thấy trong văn học cổ.

-> Như vậy chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã khái quát được vẻ đẹp chung “mười phân vẹn mười” và vẻ đẹp riêng của từng người bằng một giọng đầy ngợi ca, ngưỡng mộ.

 

doc 204 trang linhnguyen 21/10/2022 440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập văn bản văn học Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập văn bản văn học Lớp 9

Ôn tập văn bản văn học Lớp 9
ến đêm 30 tháng Chạp đã lập tức lên đường ra Thăng Long, tất cả đều đi bộ.
+ Hành quân xa và liên tục như vậy nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, tính kỉ luật rất cao. Có được cuộc hành quân thần tốc đó là nhờ tài trí của người cầm quân, nếu không có tài trí thì không làm được điều kì diệu ấy. Vậy làm thế nào Quang Trung tiến hành được cuộc hành quân thần tốc ấy, có sách kể lại rằng cứ hai người khiêng một người bằng võng, luân phiên nhau ngày đêm đi không ngừng nghỉ.
- Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện ở cách đánh bất ngờ ngay khi địch đang kiêu căng khinh xuất.
+ Ông biết chọn tướng chỉ huy, chọn hướng tiến công, tổ chức các trận đánh linh hoạt sáng tạo làm nên những chiến công lừng lẫy, khiến kẻ thù không kịp trở tay.
+ Trận mở màn ở làng Thượng Phúc, Quang Trung cho bắt hết bọn do thám, bởi vậy Quân Thanh không nhận được tin báo gì.
+ Trận Hà Hồi, Quang Trung cho quân lính vậy kín làng, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính thay nhau dạ ran, làm cho quân Thanh rụng rời, sợ hãi, xin đầu hàng.
+ Đánh đồn Ngọc Hồi, với tài thao lược mưu trí, Quang Trung khiến quân Thanh không kịp trở tay, không thể nào chống cự nổi, bỏ chạy tán loạn, dày xéo lên nhau mà chết.
->Quang Trung cùng với đội quân của mình đã đánh dấu thêm những mốc son chói lọi vào trang lịch sử hào hùng của dân tộc
5. LĐ 5: Hơn bao giờ hết, thế hệ hôm nay còn biết ơn Quang Trung bởi ông còn là một người có lòng yêu nước thương dân nồng nàn.
- Lúc nào ông cũng nghĩ cho dân ngay cả khi chiến thắng: “việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân”
6. LĐ 6: Đọc hồi 14, ta vô cùng khâm phục trước hình ảnh vua Quang Trung oai phong lẫm liệt trong trận đánh.
- Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân và trở thành linh hồn của cuộc chiến. Ông thực sự là một vị tổng chỉ huy, hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh các mũi tiến quân, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trận mạc trước muôn vàn mũi tên hòn đạn.
- Đội quân của Quang Trung vừa trải qua những ngày hành quân vất vả, không có thời gian nghỉ ngơi, vậy mà trước sự lãnh đạo tài tình quả Quang Trung đã áp đảo kẻ thù.
- Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung, tỉnh táo khác thường. Chính phong thái ung dung, tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng. Dưới những trang văn mang màu sắc sử thi của đoạn trích, ta thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ, chỉ huy đội quân dàn trận chữ nhất tiến vào Thăng Long thật lẫm liệt.
- Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong khói tỏa mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách hào hùng đã khắc tạc một hình ảnh đẹp trong chiến trận. Hình ảnh ấy đã được sử sách ghi lại: “Ngày mùng 5 Tết năm Kỉ Dậu, tấm áo bào đỏ của Quang Trung sạm đen khói súng”. Hình ảnh này sẽ mãi mãi khiến ta khâm phục và ngưỡng mộ.
->Có thể nói trận đánh ở đồn Ngọc Hồi đã khắc họa những tính cách quả cảm, mạnh mẽ của người anh hùng dân tộc với những chiến công lẫy lừng.
7. LĐ 7: Đánh giá chung
- Bằng giọng điệu hào sảng, ngưỡng mộ kết hợp với nghệ thuật kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động, cụ thể, nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái đã có những cống hiến vô giá về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc, mang đậm màu sắc sử thi về cuộc đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn và nổi bật trên nền hiện thực ấy là vẻ đẹp của người anh hùng áo vải Quang Trung.
- Thông qua hình ảnh Quang Trung, tác giả đã khơi dậy trong lòng người đọc niềm tự hào về truyền thống đánh giặc quật cường của dân tộc và ý thức trách nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của đất nước, nhất là trong bối cảnh kẻ thù đang lăm le xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của nước ta.
C. Kết bài:
- Hơn hai thế kỉ đã trôi qua nhưng những chiến công của vua Quang Trung vẫn còn ngân vang mãi. Hính ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ đã tạc vào lịch sử dân tộc, bức tượng đài vĩ đại về người anh hùng cứu nước.
- Trong khúc ca khải hoàn của người chiến thắng, vua Quang Trung tiêu biểu cho những gía trị thuộc về dân tộc, đó là đạo lí Việt Nam, tài trí Việt nam, sức mạnh Việt Nam. Công chúa Lê Ngọc Hân đã hết lời ca ngợi:
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
CÂU HỎI ÔN TẬP
 Bàn về cuốn tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái có ý kiến cho rằng “Hồi thứ mười bốn đã tái hiện chân thực hình tượng người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh”.
 Phân tích hình tượng nhân vật Quang Trung (Nguyễn Huệ) để làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung nghị luận.
2. Giải thích ý kiến: 
- Hình tượng nhân vật là con người trong đời sống được nhà văn tái hiện một cách chọn lọc, sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật, gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc. -> Các tác giả Ngô Gia Văn Phái đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ mang nhiều vẻ đẹp rất đáng khâm phục, tự hào.
3. Phân tích:
*Phân tích, chứng minh: Vẻ đẹp hình tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ được thể hiện ở các phương diện sau:
- Người anh hùng tài trí, có sức mạnh quật cường: Phân tích dẫn chứng. 
+ hành động mạnh mẽ quyết đoán;
+ trí tuệ sáng suốt;
+ ý chí quyết thắng, có tầm nhìn xa trông rộng;
+ có tài dụng binh như thần;
+ có lòng yêu nước thương dân.
- Người anh hùng oai phong, lẫm liệt khi xung trận: Phân tích dẫn chứng. (0,75 điểm)
*Đánh giá: 
- Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến.
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ.
TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975
BÀI 3: “LÀNG” CỦA KIM LÂN
Phân tích nhân vật ông Hai
A.Mb
- Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Kim Lân là gương mặt độc đáo. Do hoàn cảnh sống của mình ông am hiểu sâu sắc sinh hoạt và đời sống của người nông dân. Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của người dân quê Việt Nam với vẻ đẹp mộc mạc mà đậm đà.
- Truyện ngắn “Làng” được ông viết năm 1948, đã khắc họa sinh động và chân thực tình yêu làng hòa quyện trong tình yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai- người nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B.Tb
*Đv khái quát: Cũng viết về tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh, nhưng tác phẩm làng của Kim Lân không có bom rơi đạn nổ, không có đổ máu mà chỉ đơn thuần là những con người với tấm lòng và tình cảm thiêng liêng sâu sắc với làng quê với đất nước. Truyện xoay quanh nhân vật chính là ông Hai với những tình huống đầy bất ngờ kịch tính. Diễn biến tâm lí và sự phát triển tính cách của ông Hai đã làm nên toàn bộ cốt truyện. Ở nhân vật này tình cảm chủ đạo và xuyên suốt tác phẩm là lòng yêu làng xóm quê hương tha thiết, lòng yêu đất nước sâu nặng.
*Phân tích:
1. Lđ1: Trước hết ông Hai là một người rất yêu làng, ông luôn nhớ về làng trong những ngày đi tản cư.
- Như bao người dân quê, ông Hai gắn bó sâu nặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện trong nét tâm lí hay khoe về làng. Làng chợ Dầu là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông gắn bó bằng một tình cảm máu thịt. Trước cách mạng tháng Tám, ông khoe làng ông nhà ngói san sát, đường lát đá xanh mát rượi, ông tự hào cả cái mộ phần của tên quan tổng đốc của làng. Đối với người nông dân, ngôi làng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của họ, tuy nhiên, ẩn trong tình yêu ấy lại có đôi chút mù quáng. Vì vậy có thể nói tình yêu làng của ông hai trước cách mạng có đôi chút hời hợt, chưa gắn với tình cảm khác.
- Sau cách mạng tháng Tám, tâm hồn ông Hai như được thổi một luồng sinh khí mới, với những nhận thức mới mẻ và tiến bộ hơn. Giờ đây ông đã biết phê phán quan lại địa chủ phong kiến, ông căm thù cái sinh phần của tên tổng đốc bởi ông hiểu được rằng, nó đã làm cho nhiều gia đình phải khổ sở tủi nhục. Giờ đây khoe về làng là ông khoe về tinh thần kháng chiến, từ cụ già em nhỏ, đều một lòng ghét giặc. Ông tự hào làng ông thực sự là một làng kháng chiến, ở đâu cũng thấy ụ hào giao thông, người tập quân sự, có cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều đưa tin tức kháng chiến, có phòng thông tin sáng sủa, người ra vào tấp nập.
- Do yêu cầu của cuộc kháng chiến ông Hai phải rời làng đi tản cư, mặc dù đó là điều ông không muốn. Nhưng ông hiểu rằng tản cư cũng là làm kháng chiến ủng hộ cụ Hồ. Cuộc sống nơi tản cư dù vất vả nhưng sau những giây phút xới đất trồng rau trong người mệt nhừ ông lại nôn nao nhớ về làng quê yêu dấu: “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”. Ông nhớ về cái ngày cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào khuân đá. Ông sung sướng nhớ về kỉ niệm tham gia kháng chiến: “Sao mà độ ấy vui thế?”. Ông quan tâm lo lắng không biết cái chòi canh ở làng đã xong chưa. Mỗi lần nhớ về làng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông thấy mình như trẻ ra và lại muốn về làng.
- Với cách kể xúc động, tác giả đã diễn tả nỗi nhớ làng của ông Hai. Đằng sau nỗi nhớ làng ấy của ông, người đọc cảm nhận được ông Hai là người gắn bó sâu nặng với làng, có trách nhiệm với công việc kháng chiến. -> có thể nói làng chợ Dầu đã trở thành máu thịt, luôn thường trực, cánh cánh trong lòng ông. Người đọc thực sự hiểu được nỗi lòng của người xa quê trong ông Hai. Với ông Hai, yêu làng là tự hào về tinh thần kháng chiến của làng. Đây là nét chuyển biến mới về tình yêu làng của người nông dân trong kháng chiến.
2. Lđ 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được bộc lộ sâu sắc, mãnh liệt khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây.
- ở nơi tản cư, ông Hai thường xuyên ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, trên đường đi ông đi với thái độ nghênh ngang kiêu hãnh, ông còn mong Tây chết vì nắng. 
- Đến phòng thông tin ông vô cùng sung sướng, vì nghe được toàn những tin tốt, tin thắng trân của quân ta “ruột gan ông lão cứ múa cả lên vui quá”. Đây là niềm vui phấn khởi của người nông dân giàu lòng yêu nước và có tinh thần kháng chiến cao độ. Ông vui với thắng lợi bước đầu của quân ta và còn tin ngày chiến thắng sẽ đến gần để ông sớm trở về với cái làng chợ Dầu mà ông hằng mong nhớ.
- Từ phòng thông tin về gặp ai ông cũng ríu tít hỏi han chuyện quê quán lúa má, chuyện Tây nó bắn ở đâu.Ông đi thẳng về lối huyện cũ, ông gặp những người tản cư ở dưới xuôi lên, nghe họ nhắc đến tên làng, ông quay phắt lại hỏi, hi vọng được nghe tin tốt, nào ngờ hay tin làng chợ Dầu Việt gian theo Tây. Nhà văn Kim Lân đã rất tài tình khi đặt nhân vật ông Hai vào tình huống đầy thử thách và gay cấn đó là tin làng chợ Dầu theo Tây. Mượn tình huống này nhà văn đã bộc lộ sâu sắc tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai.
- Trước cái tin quá đột ngột ấy,ông sững sờ đến chết đứng: “cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Nỗi buồn khổ về tin làng phản bội theo Tây như một nhát dao cứa vào tim ông, làm sụp đổ bao niềm kiêu hãnh về làng quê của mình. Từ đỉnh cao từ niềm vui niềm tin ông rơi xuống vực thẳm của đau khổ tuyệt vọng. Cái tin sét đánh ấy làm cho ông hụt hẫng bàng hoàng sửng sốt, ông thấy xấu hổ tê tái da mặt. 
- Nhà văn đã theo sát nhân vật từ cử chỉ lời nói hành động để miêu tả một cách chân thực và sống động diễn biến tâm trạng của ông Hai.
+ Từ choáng váng đến khi chấn tĩnh lại phần nào ông cố chưa tin cái tin ấy nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá “chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại. tây nó vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thân ra hoan hô. Thằng Chánh Bệu thì khiêng cả tủ chè và đỉnh đồng đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh” khiến ông không thể không tin. 
+ Ông tìm cách lảng ra về cố ra vẻ bình thản để che giấu tâm trạng, ông đứng dậy cười nhạt một tiếng rồi nói to “Hà nắng gớm về nào”. Ông lão vờ vờ lảng ra chỗ khắc rồi đi thẳng. nụ cười nhạt cùng lời độc thoại của ông, đã chứng tỏ ông đang cố che giấu tâm trạng buồn bã thất vọng của mình. Ông cười đấy nhưng ruột gan ông như bị ai sát muối. Nỗi tủi hổ lo lắng khiến ông cúi gằm mặt xuống mà đi. Đối lập hẳn với thái độ lúc đến phòng thông tin. Hình ảnh ông Hai lúc này hiện lên thật tội nghiệp.
*Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, ông vô cùng đau đớn xót xa trước cái tin dữ ấy, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, nước mắt ông cứ tràn ra giàn giụa: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư, chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Lời độc thoại nội tâm được chắt ra từ nỗi đau khổ tủi nhục của ông. Ông đau cho mình và cũng đau thay cho những đứa trẻ, bỗng nhiên bị mang tiếng là người làng Việt gian. 
- Ông suy xét kiểm điểm lại những người trong làng căm giận những người theo giặc phản bội làng nước, ông nắm chặt hai tay mà rít lên “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà lại đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này” ông chửi đấy nhưng trong lòng ông đau xót lắm. Ông thấy ngờ ngợ như lời mình nói ra không được đúng lắm. Niềm tin, nỗi nghi ngờ giằng xé trong ông. Nhưng lẽ thường, không có lửa thì làm sao có khói mà thằng Chánh Bệu thì đích thị là người làng rồi. Ai hơi đâu mà bịa tạc ra cái chuyện ấy làm gì “chao ôi cực nhục chưa, cả làng Việt gian” khiến ông buộc phải tin. Tin rồi ông lại quay ra thương làng, thương người dân quê hương này, tan tác mỗi người một phương, bao nhiêu câu hỏi khiến ông day dứt. 
- Với ngôn ngữ miêu tả kết hợp với nghệ thuật độc thoại nội tâm, tác giả đã khắc họa thành công từng biểu hiện trạng thái dằn vặt của ông Hai. Qua sự giằng co phức tạp đó, người đọc cảm nhận được từ đáy lòng ông luôn ấp ủ một tình yêu làng cháy bỏng da diết. Đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn giản dị mộc mạc của người nông dân Việt Nam.
*Cũng với cái tin dữ ấy đã khiến ông thay đổi hẳn tâm tính của mình. Trước đó ông vui vẻ cởi mở dễ tính, giờ đây ông trở nên cáu gắt, ngay cả với vợ con ông.
- Mấy ngày sau đó ông chẳng dám đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng binh tình. Một đám đông tụm lại ông cũng để ý, năm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ, hễ nghe thấy tiếng Việt gian, cam nhông ông lại lủi vào góc nhà nín thít. Cái tin làng chợ Dầu theo Tây đã trở thành nỗi ám ảnh đầy sợ hãi trong lòng ông, biến ông thành một người sống khép mình và tự cảm thấy mình có lỗi trong việc làng theo Tây, phản bội kháng chiến. Ông thu mình lại trong nỗi tủi hổ đau xót, trằn trọc không ngủ, không nói năng chi.
*Ông Hai còn rơi vào tình trạng bế tắc tuyệt vọng khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi ông đi. Ông không biết đi đâu cũng không thể quay về làng, vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Trong ông diễn ra cuộc xung đột nội tâm gay gắt và ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của mình: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là quyết định vô cùng đau đớn của ông Hai, ông yêu làng tha thiết không thể dứt bỏ được, nhưng cũng không thể tha thứ cho những kẻ bán rẻ danh dự của làng, ông thù là thù cái làng Việt gian. Sự yêu ghét trong ông thật rõ ràng rành mạch. Ông đau đớn xót xa trước một sự thật không thể chối bỏ, nhưng ẩn sau đó là tình yêu làng quê gắn với tình yêu đất nước. Tình yêu nước đã rộng lớn, bao trùm lên tình yêu làng. Dẫu cả làng ông theo giặc ông vẫn một lòng theo kháng chiến. Nhà văn Kim Lân đã phát hiện ra những chuyển biến mới này trong tình cảm và nhận thức của người nông dân sau cách mạng tháng Tám. 
*Trong tâm trạng dồn nén ông chỉ còn biế trút nỗi lòng với đứa con út. Ông hỏi con “Nhà con ở đâu?”, phải chẳng ông muốn khắc sâu trong con nơi mình sinh ra và lớn lên, đồng thời ông cũng muốn truyền cho con tình yêu làng như chính tình cảm của ông dành cho làng chợ Dầu. Ông còn hỏi con có muốn về làng không, hỏi con nhưng ông như đang hỏi chính mình, bởi trong ông cũng đang da diết cháy bỏng niềm khao khát muốn được về làng “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Nói với con mà thực chất ông đang nhủ lòng mình và minh oan cho mình. Đứa con như nói hộ lòng ông tình cảm với làng với kháng chiến. Ông mong cụ Hồ hiểu cho tấm lòng của bố con ông, anh em đồng chí biết cho bố con ông “cái lòng của bố con ông là thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết, có bao giờ dám đơn sai”. Lời tâm sự của ông giống như môt lời thề nguyền, giúp vơi đi phần nào nỗi khổ tâm trong ông, bộc lộ sâu sắc tấm lòng gắn bó bền chặt với quê hương đất nước với kháng chiến. Ông tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào cụ Hồ. Đây cũng là một nhận thức mới trong tình cảm của người nông dân sau cách mạng tháng Tám.
3. Lđ 3: Cuối cùng, nỗi lòng của ông Hai cũng được giải thoát, ông vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi nhận được tin làng ông không theo giặc.
- Nếu như trước đó ông rầu rĩ, chán nản, u uất bao nhiêu thì giờ đây ông như được hồi sinh trở lại “Cái mặt buồn thiu bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, vừa về đến ngõ ông đã gọi trẻ con ra chia quà
- Ông hồ hởi đi khắp nơi khoe với tất cả mọi người xung quanh về tin cải chính, khoe cả chuyện Tây đốt nhà mình, đốt nhẵn. Ông múa lên mà khoe. Người đọc người nghe không hiểu vì với người nông dân ngôi nhà là cả một cơ nghiệp, tài sản lớn cất giữ bao nhiêu kỉ niệm vui buồn của cuộc đời đáng ra ông phải đau xót tiếc nuối nhưng ngược lại ông cảm thấy rất mãn nguyện bởi đây là mình chứng hùng hồn chứng minh ông và làng ông không Việt gian theo Tây. Ngôi nhà của ông đã cháy rụi nhưng làng chợ Dầu của ông sẽ hồi sinh, sẽ có những ngôi nhà mới, cuộc sống mới sẽ đến với người nông dân, đến đây ta nhận ra một vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người nông dân đó là sự hi sinh, cống hiến, đặt lợi ích của tập thể , của làng lên trên lợi ích cá nhân. Ông cũng như bao người nông dân khác sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến, cho cách mạng. Còn làng còn kháng chiến là còn tất cả “nước nổi lo chi bèo không nổi”
4.Lđ 4: Đánh giá
- Có thể nói cùng viết về đề tài người nông dân, đặc biệt là người nông dân sau cách mạng, nhưng với truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã thể hiện rất thành công và cảm động tình yêu làng thống nhất với tình yêu nước qua nhân vật ông Hai.
- Bằng sự am hiểu sâu sắc tâm lí người nông dân cùng với tài năng dựng tình huống bất ngờ, sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm, Kim Lân đã thể hiện xúc động vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam trong kháng chiến. Đó là những con người mộc mạc chất phác, có tình yêu làng yêu nước sâu sắc, bền chặt.
- Qua nhân vật ông Hai, nhà văn đã khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu làng, sự gắn bó thân thiết với làng quê, với đất nước.
C.Kb
- Nhân vật ông Hai chính là biểu tượng sinh động cho vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Với tác phẩm “Làng”, Kim Lân xứng đáng với danh hiệu nhà văn của nông thôn và người nông dân.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Đề 1: Hãy phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ lúc nghe tin làng chợ Dầu theo giặc dến hết đoạn truyện ông trò truyện với đứa con Út trong truyện ngắn Làng (Kim Lân) để làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước của ông. Qua đó nêu suy nghĩ của em về tình yêu nước của nhân dân ta trong thời đại ngày nay.
Gợi ý:
Phân tích tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai:
+ Tình yêu làng, yêu nước được bộc lộ sâu sắc từ khi nghe tin làng theo giặc đến khi trò truyện với con út: ông đau đớn, bẽ bàng, sững sờ, ám ảnh, day dứt, luôn sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ, nhục nhã. Ông tủi thân, thương con, thương làng chợ Dầu bị mang tiếng là dân làng Việt gian. Ông cảm nhận hết nỗi nhục nhã, lo sợ tuyệt đường sinh sống. Tâm trạng bế tắc, thù làng.
+ Trong tâm trạng ấy, ông chỉ biết tâm sự với đứa con Út của mình để củng cố nềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. 
+Tình yêu làng là cơ sở, ngọn nguồn của tình yêu nước, tình yêu nước làm cho tình yêu làng sâu sắc. Tình yêu làng, yêu nước, gắn bó với tình yêu kháng chiến, yêu Cụ Hồ. 
+Nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống truyện gay cấn; miêu tả tâm lí nhân vật chân thực và sinh động qua suy nghĩ, hành động, qua lời nói. 
 *Từ tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai, học sinh hiểu được tình yêu nước là gì? Biểu hiện của tình yêu nước của nhân dân ta hiện nay: nhân dân ta tiếp tục phát huy truyền thống yêu làng, yêu nước trong quá khứ; ra sức xây dựng làng quê, đất nước ngày càng giàu mạnh bằng những việc làm, hành động cụ thể, thiết thực. Đặc biệt ra sức bảo vệ làng quê, đất nước (bảo vệ c

File đính kèm:

  • docon_tap_van_ban_van_hoc_lop_9.doc