Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Hoàng Lê nhất thống chí"
a. Thể loại:
(chí là một lối văn ghi chép sự vật, sự việc).
Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. (Còn có tên: “An Nam nhất thống chí” hoặc “Quý Lê ngoại sử”)
Viết bằng chữ Hán.
b.Nhan đề:
“Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng chữ Hán: ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê.
c.Xuất xứ đoạn trích:
Hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh.
d. Hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm được sáng tác vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự thống nhất của vương triều nhà Lê, mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
e.Phương thức biểu đạt:
Tự sự kết hợp yếu tố miêu tả, nghị luận
g.Bố cục:
- Đoạn 1: Từ đầu . ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”): Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.
- Đoạn 2: “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh rồi kéo vào thành”: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Đoạn 3: Còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
h. Chủ đề:
Đoạn trích ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của người anh hùng dân tộc Quang Trung, sự thảm bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Hoàng Lê nhất thống chí"
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ NGÔ GIA VĂN PHÁI I.Đọc-tìm hiểu chung: 1.Tác giả: Ngô Gia Văn Phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753-1788), làm quan thời Lê Chiêu Thống, và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn. 2.Tác phẩm: a. Thể loại: (chí là một lối văn ghi chép sự vật, sự việc). Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. (Còn có tên: “An Nam nhất thống chí” hoặc “Quý Lê ngoại sử”) Viết bằng chữ Hán. b.Nhan đề: “Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng chữ Hán: ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. c.Xuất xứ đoạn trích: Hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh. d. Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được sáng tác vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự thống nhất của vương triều nhà Lê, mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi. e.Phương thức biểu đạt: Tự sự kết hợp yếu tố miêu tả, nghị luận g.Bố cục: - Đoạn 1: Từ đầu. ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”): Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc. - Đoạn 2: “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh rồi kéo vào thành”: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung. - Đoạn 3: Còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống. h. Chủ đề: Đoạn trích ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của người anh hùng dân tộc Quang Trung, sự thảm bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân. i.Tóm tắt: *Tóm tắt các sự kiện ở hồi 14 “Hoàng Lê nhất thống chí” - Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long rút quân về Tam Điệp và cho người vào Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. - Nhận được tin ngày 24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo thuỷ - bộ. - Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo quân tiến ra Bắc. - Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An, Quang Trung cho dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một cuộc duyệt binh lớn. - Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã khẳng định : "Chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Cũng trong ngày 30, giặc giã chưa yên, binh đao hãy còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười năm sau chiến tranh. Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành Thăng Long mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết không để sót một tên. - Rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân bí mật bao vây đồn Hạ Hồi và dùng mưu để quân Thanh đầu hàng ngay, hạ đồn dễ dàng. - Rạng sáng ngày mùng 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả quyết liệt, dùng ống phun khói lửa ra nhằm làm ta rối loạn, nhưng gió lại đổi chiều thành ra chúng tự hại mình. Cuối cùng, quân Thanh phải chịu đầu hàng, thái thú Điền châu Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. - Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long. Đám tàn quân của giặc tìm về phía đê Yên Duyên gặp phục binh của ta, trốn theo đường Vịnh Kiều lại bị quân voi ở Đại áng dồn xuống đầm Mực giày xéo, chết hàng vạn tên. Một số chạy lên cầu phao, cầu phao đứt, xác người ngựa chết làm tắc cả khúc sông Nhị Hà. Mùng 4 Tết nghe tin quân Tây Sơn tấn công, Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống đã vội vã bỏ lên biên giới phía bắc. Khi gặp lại nhau, Nghị có vẻ xấu hổ nhưng vẫn huênh hoang. Cả hai thu nhặt tàn quân, kéo về đất Bắc. *Tóm tắt đoạn trích: Nghe tin quân Thanh chiếm đóng thăng Long, Bắc Bình Vương vô cùng căm tức, định cầm quân đi diệt giặc ngay. Nhưng nghe lời khuyên của các thuộc hạ, ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung. Ông hạ lệnh xuất quân ra bắc, thân chinh cầm quân, vừa đi vừa tuyển quân lính. Trong năm ngày hành quân thần tốc, quân Tây Sơn đến điểm tập kết tại núi Tam Điệp. Vua mở tiệc khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Trong hai trận đánh Hà Hồi và Ngọc Hồi, nhờ tài dụng binh như thần của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ bão, quân giặc thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía bắc, khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân. II.Đọc hiểu văn bản: 1.Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ a.Hành động mạnh mẽ, quyết đoán: -Hành động nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết . + Nghe tin giặc đánh chiếm Thăng Long, ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi diệt giặc ngay”. +Ông giành thời gian gặp gỡ và tranh thủ ý kiến của các cao nhân, đặc biệt là Nguyễn Thiếp. + Chỉ hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được những việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc +Ông tổ chức một cuộc hành quân thần tốc +Ông vừa tuyển binh, vừa duyệt binh, vừa định ra kế hoạch đánh giặc và đối phó với nhà Thanh sau khi chiến thắng →Hành động mạnh mẽ, quyết đoán của vua Quang Trung đã củng cố niềm tin cho binh lính. b.Trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng: * Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta: Ngay khi quân Thanh kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế→ mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để diệt kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được nhân dân ủng hộ. * Sáng suốt trong việc ổn định tâm lí cho binh lính: - Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung vạch rõ tội ác, dã tâm của kẻ thù: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải.”. - Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ, nêu cao truyền thống đấu tranh của dân tộc bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm: Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành - Quang Trung đã kêu goi các tướng sĩ đồng tâm hiệp lực, đề ra kỉ luật nghiêm, dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”. * Sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi, nắm được điểm mạnh điểm yếu của họ: - Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng” nhưng ông hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen. - Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí” việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao. * Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng: - Mới khởi binh đánh giặc, vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. -Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hoà bình để dẹp yên việc binh đao. c.Tài dụng binh như thần: - Thể hiện ở cuộc hành quân thần tốc +Ngày 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế) +Ngày 29 tháng chạp đến điểm tập kết Tam Điệp (ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hóa) vượt qua 350 km đường đèo núi hiểm trở. +Đêm 30 tháng chạp tiến quân ra Thăng Long. +Dự định mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long nhưng đã chiến thắng vượt kế hoạch 2 ngày. - Thể hiện ở tài tổ chức của người cầm quân: +Hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, đội quân tinh nhuệ bao bọc ở bốn doanh: tiền quân, hậu quân, tả-hữu +Nhờ tài dụng binh tài giỏi, kỉ luật nghiêm minh nên dù đi đường xa hiểm trở, đi nhanh, liên tục, đội quân vẫn chỉnh tề, tuân thủ tốt kỉ luật. →Chính tài dụng binh như thần của Quang Trung đã tạo nên chiến công hiển hách. d.Là người anh hùng lẫm kiệt trong chiến trận: - Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa, là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự. - Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù. - Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoạ lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng. - Hình ảnh người anh hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dụng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. ═˃Đoạn trích đã dựng nên một tượng đài đẹp đẽ, kì vĩ về người anh hùng áo vải Quang Trung. ═˃Mạnh mẽ, quyết đoán/trí tuệ sáng suốt, nhìn xa trông rộng/dụng binh như thần/anh hùng lẫm liệt.(20 TỪ KHÓA) 2.Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh: Tôn Sỹ Nghị kéo quân sang An Nam với mục đích vơ vét của cải nhưng lại không muốn tốn nhiều xương máu. - Tôn Sỹ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan: + Kéo quân vào Thăng Long dễ dàng như “đi trên đất bằng”, không đề phòng gì, lấy thanh thế suông để doạ dẫm. + Y còn là một tên tướng hèn nhát, bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư. Dù được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi. - Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp chuồn qua cầu phao, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời, sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. →Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai bây giờ chỉ còn biết tháo chạy thoát thân, thất bại thảm hại. 3.Số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống: - Vua tôi Lê Chiêu Thống đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược -Phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh, quỳ gối cầu xin nhà Thanh, không còn đâu tư cách bậc quân vương. - Khi quân Tây sơn đánh đến nơi, bọn chúng vội vã tháo chạy - Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt, và sau khi sang đến Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người. →Phải chịu số phận bi thảm của kẻ vong quốc. ═˃Với quan niệm đúng đắn và lòng tự hào dân tộc, trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”, các tác giả Ngô gia văn phái đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh. Đồng thời các tác giả còn tái hiện cảnh bại vong của quân tướng nhà Thanh và sự thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống. 4. Nét đặc sắc về nghệ thuật: -Kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây được ấn tượng. -Khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ một cách rõ nét, mang đậm màu sắc sử thi -Kể lại các sự kiện một cách rành mạch, chân thực, khách quan, kết hợp yếu tố miêu tả với biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập. -Miêu tả hành động, lời nói của nhân vật, từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân một cách cụ thể.
File đính kèm:
- on_tap_mon_ngu_van_lop_9_van_ban_hoang_le_nhat_thong_chi.docx