Khung chương trình ôn tập buổi chiều Ngữ văn Lớp 9 - Chương trình học kì 1 - Năm học 2020-2021

TLV: Ôn tập đặc điểm văn tự sự

TLV: Hướng dẫn làm kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện, đoạn trích (trọng tâm nghị luận về đặc điểm nhân vật)

Văn+ TLV: - Đặc điểm văn học Trung đại

 - Ôn văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương"

Văn: Hồi 14, trích "Hoàng Lê nhất thống chí" - Hình ảnh người anh hùng Quang Trung.

TLV: Hướng dẫn làm kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.

Văn+TLV: - Truyện Kiều của Nguyễn Du;

 - Ôn luyện đoạn trích "Chị em Thúy Kiều"( Kết hợp văn tự sự, nghị luận về đoạn trích).

Văn+TLV: đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (Kết hợp văn tự sự, nghị luận về đoạn trích).

Văn+TLV: - TruyệnLục Vân Tiên;

 - Ôn đoạntrích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga"- Hình ảnh người anh hùng nghĩa hiệp.

 

doc 162 trang linhnguyen 20/10/2022 1360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khung chương trình ôn tập buổi chiều Ngữ văn Lớp 9 - Chương trình học kì 1 - Năm học 2020-2021", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khung chương trình ôn tập buổi chiều Ngữ văn Lớp 9 - Chương trình học kì 1 - Năm học 2020-2021

Khung chương trình ôn tập buổi chiều Ngữ văn Lớp 9 - Chương trình học kì 1 - Năm học 2020-2021
quyện khó có thể tách rời, song yếu tố ngụ tình mới là cái chủ đích của người nghệ sĩ. Những tứ thơ xuân của Nguyễn Trãi,“Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến... đều đã rất thành công ở nghệ thuật này.
 - Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du sử dụng rất tài hoa, điêu luyện trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Ở đó, tất cả bức tranh về thiên nhiên tạo vật đều được khúc xạ qua cái nhìn, cách nhìn của tâm trạng; qua cảnh ngộ và nỗi niềm của nhân vật. Vì thế, tạo vật trong “Truyện Kiều” lúc nào cũng có một linh hồn, một tình cảm. Đó là linh hồn của Nguyễn Du hòa quyện vào đó tạo cho tác phẩm trở thành một khối tình cảm duy nhất. - Chính Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cảnh và tình: 
 “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
 Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” 
 Bức tranh cảnh ngày xuân khi chị em Thúy Kiều khi du xuân trở về, bức tranh mùa thu lúc Thúy Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau hay thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích khi Thúy Kiều bị giam lỏng nơi đây đều là “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
 b2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
 - Tám câu thơ đặt trong mạch 22 câu thơ của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là khi Thúy Kiều trở về với chính lòng mình, đối diện với chính mình. Từ thương người đã trở thành nỗi thương mình xót xa. Đây là những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất – là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh vật khơi gợi ở Kiều những nồi buồn khác nhau với những lí do buồn khác nhau để rồi tình buồn tác động lại cảnh khiến cảnh mỗi lúc một buồn hơn và nỗi buồn cứ dâng lên như lớp lớp sóng trào.
 .* Nỗi buồn của Kiều trước khung cảnh cửa bể chiều hôm:
 Buồn trông cửa bể chiều hôm 
 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa? 
- Mở đầu đoạn thơ là không gian nơi cửa bể và thời gian là chiều hôm – một không gian, thời gian nghệ thuật vốn rất quen thuộc trong văn thơ cổ. “Chiều hôm” là thời điểm đợm buồn lại được đặt trong không gian rộng lớn “cửa bể” càng gợi vẻ hiu quạnh, thê lương. Trong không gian bốn bề xa trông ấy, giữa trùng khơi sóng nước chỉ thấy thấp thoáng ẩn hiện như hư, như thực ai đó nơi xa. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng xa xa, rồi khuất hẳn giữa mênh mông sóng nước gợi hành trình mờ mịt không biết đâu là bến bờ, nỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ. Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ gia đình, quê hương và hi vọng về cuộc đoàn viên đến nao lòng.
 * Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa: 
- Trải lòng mình trước không gian nơi lầu Ngưng Bích, tự thân trong lòng mang nặng nỗi buồn, Thúy Kiều trông ra ngoại cảnh. Điểm nhìn từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể. Lúc này, trước mắt nàng là ngọn nước triều cường và hình ảnh cánh hoa trôi nổi giữa biển khơi vô định:
 “Buồn trông ngọn nước mới sa 
 Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
 - Ở đây, thi hào Nguyễn Du đã cực tả, đặc tả tâm trạng bi thương của Kiều qua những hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm. “Dòng nước mới sa” hay chính là dòng đời, bể đời vô định; hình ảnh “hoa trôi man mác” phải chăng là thân phận người con gái đang trôi dạt, đang bị vùi dập trước sóng gió cuộc đời? Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”cất lên như một tiếng than diễn tả tâm trạng xót xa, hoang mang, lo sợ của Kiều: không biết cuộc đời sẽ trôi nổi đến đâu, tương lai rồi sẽ thế nào hay lại tan tác, bị dập vùi như cánh hóa mỏng manh kia.
. * Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cảnh nội cỏ nhạt nhòa, mênh mông “rầu rầu”:
 “Buồn trông nội cỏ rầu rầu
 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
 - Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” héo úa với màu xanh nhạt nhòa trải dài từ mặt đất đến chân mây là hình ảnh của thiên nhiên héo úa, tàn phai.Thiên nhiên ấy gợi ở Kiều nỗi chán ngán, vô vọng, tái tê về cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết kéo dài đến tận bao giờ. Thật là “cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” ( Chế Lan Viên) 
* Cao trào bi kịch của nội tâm Thúy Kiều: 
 “Buồn trông gió cuồn mặt duềnh”
 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
 - Một cơn gió cuốn trên “mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên “ầm ầm” như bủa vây quanh ghế Kiều ngồi. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước bão táp cuộc đời, trước những tai ương đang rình rập, bủa vây. Câu thơ kết đoạn là sự hòa tấu sóng biển – sóng đời, không chỉ vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh mà còn rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa muốn hất tung người con gái đơn côi, yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mong manh.
 -> Có thể nói, thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là thiên nhiên được nhìn qua tâm trạng – được nhìn từ xa đến gấn, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, hãi hùng, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
 -> Bốn câu thơ lục bát được liên kết bởi điệp ngữ “buồn trông” nghĩa là buồn mà nhìn xa, mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đứng sau, câu hỏi tu từ cùng các từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”,”rầu rầu”,”ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trong Kiều với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Tất cả tạo nên âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc đoạn thơ, cũng là điệp khúc của tâm trạng.
.c. Kết bài: 
- Tám câu thơ- bốn cặp lục bát cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tạo thành bức tranh tứ bình tâm trạng có cấu trúc cân đối hài hòa đã khiến cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được nâng lên mẫu mực cổ điển. - Đằng sau sự thành công ấy là một trái tim yêu thương vô hạn, là sự đồng cảm, xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.
D. Củng cố:
 Giáo viên khai quát lại bài học.
E. Dặn dò:
 - Học thuộc lòng đoạn trích
 - Nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật, phân tích được đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày soạn: 8/11/2020
Ngày dạy:10/11/2020	 
BUỔI 8: ÔN LUYỆN ĐOẠN TRÍCH “ KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
A. MỤC TIÊU KIẾN THỨC:
1. Kiến thức trọng tâm:
- Kiến thức đại trà: 
+ Hiểu được tâm trạng cô đơn, buồn tủi và niềm nhớ thương của Kiều, qua đó thấy được tấm lòng thủy chung và hiếu thảo của nàng.
+ Thấy được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhật của Nguyễn Du diến biến tâm trạng được thể hiện thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.p
- Kiến thức mở rộng nâng cao: Nghệ thuật miêu tả và khắc họa nhân vật trong Truyện Kiều: Bút pháp tả cảnh ngụ tình
2. Kỹ năng:
- Rèn kỹ năng cảm thụ văn thơ trung đại.
- Rèn kỹ năng làm bài văn tự sự.
- Kỹ năng nghị luận về tác phẩm, đoạn trích.
B. CHUẨN BỊ:
1. Giáo viên:
- Thiết kế, giáo án.
2. Học sinh:
- Có sự tìm hiểu đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
C. TIẾN TRÌNH BÀI GIẢNG:
1. Kiểm tra bài cũ:
- Đọc thuộc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ? Nêu nội dung, nghệ thuật ?
2. Bài mới:
. A. Ôn luyện củng cố kiến thức cơ bản 
B. Kiến thức mở rộng, nâng cao.
.C. Luyện tập.
 .Bài 3: Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ?
.Dàn ý
a. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giới thiệu đoạn trích
b. Thân bài: 
-Nhận xét về kết cấu đoạn trích.
 Luận điểm 1: 6 câu thơ đầu: Khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích gợi hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
- Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều.
 Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
 Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
 Bốn bề bát ngát xa trông
 Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
+ Khóa xuân: khóa kín tuổi thanh xuân, nói lên hoàn cảnh đáng thương đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
+ Cảnh đẹp nhưng không gian ngoan vắng và lạnh lẽo.
+ Hình ảnh “non xa” và “trăng gân” gợi không gian dài, rộng, cao, sâu, vô tận. Đồng thời gợi sự chơ vơ, chênh vênh, trơ trọi ở lầu Ngưng Bích.
+ Hình ảnh “cát vàng, bụi hồng” nói đến sự phai nhạt của sự sống và ngổn ngang của cảnh vật.
=>Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản non xa và trăng gần ,đảo ngữ,từ láy bát ngát->gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người.Đối diện với cảnh ấy,Kiều cảm thấy thân phận mình nhỏ bé, tâm trạng cô đơn trống trải đau đớn.
.- Nàng đau đớn,tủi nhục cho thân phận của mình:
 Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
 Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
+ Từ láy “bẽ bàng” là tâm trạng xấu hổ tủi nhục
+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín, quanh đi quẩn lại hết mây sớm lại đèn khuya.Thời gian cứ thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều cảm thấy tuyệt vọng với tâm trạng cô đơn, buồn hổ thẹn đến bễ bàng. 
+ Cụm từ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.
_ 6 câu thơ đầu xây dựng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng, quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn của Kiều.
.Luận điểm 2: 8 câu tiếp: Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều qua đó cho thấy Kiều là người con hiếu thảo, người tình chung thủy.
- Nỗi nhớ Kim Trọng:
 “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
 Tin sương luống những rày công mai chờ
 Bên trời góc bể bơ vơ
 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
+ Nàng nhớ đến cảnh mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”.“Tưởng”  vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.
+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
+ Nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:
_ Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.
_ Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố,biết bao giờ mới gột rửa được?
-> Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
– Nhớ người yêu, Kiều cũng xót xa nghĩ đến cha mẹ:
 “Xót người tựa cửa hôm mai
 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
 Sân Lai cách mấy nắng mưa
 Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
+ Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:
_ Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần
_ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.
_ Nàng xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yêu mà mình không được ở bên cạnh để phụng dưỡng.
-> Tác giả đã sử dụng các thành ngữ  “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử”để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
=> Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu.
Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ.Qua đó chứng tỏ Kiều là con người thủy chung hiếu nghĩa, đáng trân trọng.
.Luận điểm 3: 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật diễn tả nỗi nhớ, nỗi buồn, tuyệt vọng, bế tắc, lo sợ ,hãi hùng của Thúy Kiều trước quá khứ đau thương, trước hiện tại bẽ bàng và tương lai sóng gió.
- Giữa không gian bao la cảnh mênh mông, Kiều cảm thấy nhớ nhà nhớ quê hương, một nỗi buồn trào dâng da diết.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
+ Thời gian chiều hôm và không gian nơi cửa bể muôn thưở buồn nhớ,gợi khao khát đoàn tụ, giữa không gian mênh mông cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc nỗi cô đơ lạc nỗi cô đơn.
+ Đại từ ai là âm điệu sầu thương. Câu thơ là một câu hỏi tu từ nhân lên như một niềm khao khát hoài vọng trông ngóng.
 - Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn, nhìn cánh hoa trôi giữa dòng nước, Kiều lại buồn cho thân phận trôi nổi, vô định, lại sót xa cho số phận của mình.
"Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
 + Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
 + Câu hỏi tu từ ở đây như một nỗi băn khoăn tự thương cho bản thân.
 .- Cảnh nội cỏ rầu rầu gợi nỗi lo sợ về tương lai mịt mờ vô vọng
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
 ->Cảnh vật khá ấn tượng, không phải cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống nhưng mà là nộ cỏ rầu rầu, héo úa buồn bã cùng mành xanh trải dài từ mặt đất đến chân mây càng khiến Kiều thêm vô vọng về cuộc sống tẻ nhạt, cô quạnh ở nơi này, cảnh mờ mịt như tương lai cũng mờ mịt của Kiều.
 - Tiếng sóng tiếng gió gợi nỗi lo sợ hãi hùng về những tai ương trắc trở của cuộc đời đang đe dọa. 
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".
+ Sóng gió ở đây là những ẩn dụ chỉ những tai hoạ đang rình dập đổ xuống cuộc đời Kiều.  
+ Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dằn của đời Kiều hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên, Kiều không chỉ buồn mà lo sợ với sóng gió cuộc đời ở ngay trước mắt.
-> Bốn cặp câu lục bát sử dụng điệp ngữ " Buồn trông – nghĩa là buồn mà nhìn xa " mà không ngóng một cái gì mơ hồ, vô vọng. Điệp ngữ này kết hợp với những hình ảnh các từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo lên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng, điệp ngữ " Buồn trông" tạo âm hưởng trầm buồn là điệp khúc đoạn thơ, điệp khúc tâm trạng.
. ->Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm” góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
c. Kết bài:
Đoạn trích có sức gợi cảm mạnh mẽ đã diễn tả thành công tâm trạng cho Thúy Kiều trước lầu Ngưng Bích. Đồng thời cho thấy Nguyễn Du thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với tâm tư số phận con người 
Bài mẫu:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
 Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.Truyện Kiều của ông được coi là kiệt tác nghệ thuật viết bằng thơ lục bát chứa chan tinh thần nhân đạo cao cả, sâu sắc.Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần hai Gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều.Đoạn thơ là bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích,đây là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều,đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy xúc động.
	Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thế hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều.
Sáu câu thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích gợi hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều.
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
 Nửa tình nửa cảnh như chia tấm long”.
 Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khoá xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán ngán, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đôi ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé:
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm long”.
 Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy.
 Tạm quên đi những chia xé trong lòng, tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ cha mẹ và người yêu của Kiều .Nỗi nhớ ấy cho thấy nàng là người con hiếu thảo,người tình chung thủy:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
 Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
 Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, nàng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thuỷ của một con người.
 Nếu khi nhớ tới Kim Trọng, Kiều tưởng thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều xót:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
 Nà

File đính kèm:

  • dockhung_chuong_trinh_on_tap_buoi_chieu_ngu_van_lop_9_chuong_tr.doc