Giáo án dạy thêm Ngữ văn Khối 9 - Văn bản "Đồng chí"
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả
- Chính Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. “Đồng chí”là một bài thơ như thế.
- Bài thơ này đã ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.
2.Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc
3. Vị trí: là bài thơ thành công của Chính Hữu, là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca chống Pháp
4. Nhan đề: người có cùng chí hướng lí tưởng. Từ đó có thể khám phá tình cảm thiêng liêng sâu nặng của người lính cách mạng
3. Mạch cảm xúc
- Bài thơ theo thể tự do, gồm hai mươi dòng chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng thứ bảy, mưới bảy và hai mươi).
o Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng thứ bảy có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính.
o Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng thứ mười bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
o Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm Ngữ văn Khối 9 - Văn bản "Đồng chí"
“Bài thơ hình thành rất nhanh và chính tôi cũng lấy rất làm tâm đắc nên thuộc lòng rồi “nhâm nhi” đọc suốt buổi không chán...”. Xuất xứ : Trích trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”, xuất bản năm 1991. c.Thể thơ: 5 chữ d.Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp với miêu tả e.Mạch cảm xúc “Sang thu” là 1 bức thông điệp lúc giao mùa: mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ. Mạch cảm xúc xuyên suốt với 2 nội dung nổi bật: cảm nhận về thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm về đời người khi chớm thu. Mạch cảm xúc của bài thơ bắt đầu bằng tâm trạng ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả khi thu sang, tiếp đến là sự say sưa, ngây ngất của tác giả trước những biến chuyển nhẹ nhàng của cảnh vật và cuối cùng tác giả trầm ngâm, suy tư về đời người, đất nước sang thu. g.Đề tài Sang thu- ngay từ nhan đề tự nó đã xác định 1 thời điểm để miêu tả và bộc lộ cảm xúc: thời điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu khi bầu trời xanh ngắt, lơ lửng mấy từng cao, không phải là cuối thu khi nắng đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét đã luồn vào trong gió. Sang thu nghĩa là chỉ mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong một chút “chớm” mong manh ấy. Đó là cái chớm thu quen thuộc ở đồng bằng Bắc Bộ. h. Bố cục: 3 phần Khổ 1: Cảm nhận về sự thay đổi của cảnh vật lúc thu sang ở không gian thấp và gần Khổ 1: Cảm nhận về sự thay đổi của cảnh vật lúc thu sang ở không gian cao, xa, dài, rộng Khổ 1: Cảm nhận về sự thay đổi của cảnh vật lúc thu sang bằng suy ngẫm. Nhan đề Gợi khoảnh khắc giang mùa Khoảnh khắc chuyển giao giữa tuổi trẻ sang độ tuổi trưởng thành, chín chắn, vững vàng II.TÌM HIỂU CHI TIẾT 1.Khổ 1: Cảm nhận về sự chuyển biến của cảnh vật lúc thu sang ở không gian thấp và gần. a.Cảnh thu Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc (Mùa thu vàng hoa cúc – Thơ tình cuối mùa thu – Xuân Quỳnh), không phải với vị thơm ngon của hương cốm mới (Sáng mát trong như sáng năm xưa, Gió thổi mùa thu hương cốm mới – Đất nước – Nguyễn Đình Thi), cũng không phải với hương hoa sữa nồng nàn (Hoa sữa – Hồng Đăng) mà là với hương ổi thơm, giòn, ngọt như đang sánh quyện lại, phả vào trong gió se “Gió se” là gió đầu thu se sắt, chớm lạnh, hơi khô, làn gió từ lâu đã được coi là hồn thu của Bắc Bộ. “Bỗng nhận ra hương ổi/Phả vào trong gió se” Ở đây, động từ “phả” cho thấy hương ổi như đang ở độ đậm nhất, thơm nồng nàn, quyến rũ tỏa vào, hoà vào trong gió heo may lan ra khắp không gian. Giải thích về việc lựa chọn hương ổi, nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết : “Mùa thu biểu hiện rất nhiều hình ảnh khi chuyển mùa. Và tất cả những hình ảnh đẹp cũng đã được các nhà thơ cổ khai thác hết cả rồi. Tôi không muốn lặp lại nữa nên giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó lại chính là hương ổi.... Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ...”. Phải chăng cũng vì cái hương ổi rất riêng ấy mà bài thơ đã đánh thức miền xa thẳm trong tâm hồn mỗi người yêu thu khẳng định giá trị của “Sang thu” ? Cùng với hương và gió thì dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua làn sương : “Sương chùng chình qua ngõ”. Sương thu ở đây không lạnh, không dày đặc như trong « Cảm thu tiễn thu » của Tản Đà: “Từ vào thu đến nay, Gió thu hiu hắt/ Sương thu lạnh/ Trăng thu bạch/ Khói thu xây thành” mà mờ ảo nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi. Ở câu thơ này, tác giả đã sử dụng phép nhân hóa và từ láy “chùng chình” làm cho làn sương vốn vô tri bỗng trở nên có hồn. Nó gợi tả làm sương mờ, mỏng, nhẹ nhàng lan tỏa trong vườn thôn ngõ xóm. Đồng thời nó còn gợi cảm giác làn sương ấy như đang chần chừ, nấn ná, do dự chưa muốn bay đi. Phải chăng, nó như cố ý chậm lại chờ hạ đi hẳn rồi mới “qua ngõ”?. Bằng một loạt từ ngữ giàu hình ảnh, tác giả đã khắc họa sinh động khoảnh khắc giao mùa. b.Tình thu Thời điểm chớm thu không chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ trong những trạng thái biến chuyển của cảnh vật mà còn biểu hiện ở cả lòng người. Bởi mùa thu vốn là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng tạo vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người vẫn là thời khắc giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm của Hữu Thỉnh ở ngay khổ thơ đầu này dường như được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín hiệu mơ hồ nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật. Tác giả đã mở căng mọi giác quan để đón nhận thiên nhiên (khứu giác-hương ổi, xúc giác-gió se, thị giác-sương. ) Bên cạnh đó, một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” được tác giả sử dụng rất hiệu quả để biểu đạt lòng người. “Bỗng” Tác giả không dùng từ « đã » mà lại dùng từ « bỗng » bởi « đã » là sự việc, hiện tượng đã xảy ra, đã hoàn tất, không cho thấy được sự bất ngờ, ngỡ ngàng. Còn từ « bỗng » là hành động, quá trình xảy ra một cách tự nhiên, bất ngờ, không lường trước được. Việc sử dụng từ « bỗng » trong câu thơ « Bỗng nhận ra hương ổi » đã thể hiện được tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng của tác giả trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ như giật mình, thảng thốt, bối rối khi bất ngờ nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa. Từ “phả” được dùng trong câu thơ thứ hai thật độc đáo biết chừng nào! “Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy. Còn “hình như” là thành phần biệt lập tình thái có mức độ tin cậy thấp. Với việc sử dụng thành phần biệt lập này, tác giả đã cho thấy được thu đến quá đột ngột nên hình như trong ông còn có chút gì chưa rõ, chưa chắc chắn trong cảm nhận. Phải chăng vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua hay là vì thu đến quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra Đặc biệt, với “Sương chùng chình qua ngõ” ta còn thấy lời thơ thấp thoáng cảm xúc bịn rịn, lưu luyến của chính Hữu Thỉnh lúc thu sang. Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp . Vì thế, những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn người, có một cái gì thật êm, thật dịu toát lên làm ta thấy lòng thanh thản mà lại nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng. Qua đây, ta thấy Hữu Thỉnh phải là người có tâm hồn nhạy cảm lắm, tinh tế lắm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết lắm thì ông mới có thể viết nên những vần thơ hay lay động lòng người đến như thế! 2.Khổ 2: Cảm nhận về sự chuyển biến của đất trời khi thu sang trong không gian dài, rộng, cao, xa. a.Hai câu đầu: Sau phút ngỡ ngàng, bâng khuâng, nhà thơ định thần lại say sưa cảm nhận sự chuyển biến của không gian cảnh vật lúc thu sang ở tầm xa hơn, cao hơn với những nét hữu hình, cụ thể, từ mặt đất hướng lên bầu trời: “Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã”. Ở đây, nghệ thuật đối :sông – dềnh dàng, chim – vội vã được sử dụng tự nhiên khắc họa được sự chuyển động trái chiều của cảnh nhưng rất đặc trưng cho mùa thu. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật nhân hóa và từ láy gợi hình làm cho thiên nhiên vô tri trở nên có hồn: „Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã”. Nhờ thế mà chúng ta có thể hình dung dòng sông khi sang thu không còn cuồn cuộn, gấp gáp như mùa hè mưa lũ mà chậm chạp, thong thả trôi. Hình như nó đang lắng lại, suy tư. Đối lập với cảnh ấy là chim “bắt đầu vội vã”. Để làm gì? Để tìm ăn những quả chín ngọt ngào, quyến rũ đầu thu? Hay bắt đầu cho một mùa sinh sôi, làm tổ mới. Hoặc vội vã cho một cuộc di trú về phương Nam, tránh cái rét lạnh của miền Bắc đã bắt đầu. Tất cả đều có thể. Điều đáng nói là nó chỉ mới „bắt đầu” thôi chứ chưa phải „đã vội vã”, chứng tỏ thu mới chớm sang chứ chưa sang hẳn. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim bay! b.Hai câu sau: Thu đang ở cửa ngõ của mùa, vì thế mà : „Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu” Tả mùa thu, nhà thơ không tả sắc xanh biếc của da trời như Nguyễn Khuyến « Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt » mà chỉ chú ý đến một chút mây còn vương vấn không khí mùa hè. Mây mùa hạ. Mây thì ai cũng thấy và cũng biết . Nhưng " mây mùa hạ" thì chỉ có thi nhân mới " nhìn thấy và cảm thấy". Câu thơ thật hay, thật khéo, và cũng thật tài hoa nhờ nghệ thuật nhân hóa : mây – vắt nửa mình sang thu ->gợi hình dung đến đám mây mềm mại, yểu điệu vắt ngang trên bầu trời, một nửa còn đang ở mùa hạ, còn nửa kia thì lại nằm ở mùa thu. Cái cách “vắt nửa mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà không có, thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình giăng ra giữa thinh không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy ! Đây là một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ bởi người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi còn Hữu Thỉnh lại điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Chao ôi, chỉ một áng mây bâng khuâng thôi mà ta có thể thấy được cả cả bầu trời đang nhuộm sắc thu. Hình ảnh thơ cho thấy cái tài và sự tinh tế của Hữu Thỉnh: Ông miêu tả không gian để vẽ ra bước chuyển của thời gian, biến cái vô hình trừu tượng trở nên hữu hình, cụ thể. Tất cả cho thấy sự đổi thay của tạo vật nhẹ nhàng mà rõ rệt và nhà thơ đã mở rộng tầm nhìn, say sưa cảm nhận sự chuyển mình của đất trời sang thu . 3.Khổ 3: Cảm nhận về sự chuyển biến của đất trời khi thu sang bằng suy ngẫm a.Hai câu đầu: Từ say sưa cảm nhận bằng những giác quan tinh tế, những chuyển biết nhẹ nhàng trong không gian lúc thu sang, cái nhìn của thi nhân đến khổ cuối như lắng cùng sự chiêm nghiệm, suy tư. Đến khổ này vẫn còn đó dấu ấn, dư âm của nắng, của mưa mùa hạ nhưng đã có sự giảm dần về số lượng: “Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa xối xả, mưa bong bóng kéo dài của mùa hè. Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ : phó từ chỉ mức độ “vẫn còn” , “đã vơi dần” được đặt lên đầu câu càng cho thấy hạ đã nhạt và thu đã đậm nét hơn. b.Hai dòng cuối bài thơ là hình ảnh thiên nhiên lúc thu sang đầy sức gợi: “Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”. Trước hết, đây là hình ảnh tả thực. Sang thu không những nắng dịu, mưa bớt, mà sấm cũng thưa và nhỏ dần, không đủ sức lay động những hàng cây đã trải qua bao cuộc chuyển mùa. Hai câu thơ còn sử dụng nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ. “Bất ngờ”, “đứng tuổi” vốn là những từ ngữ chỉ trạng thái của con người nhưng ở đây chúng lại được tác giả nói cho sấm, cho cây. Vì thế, lời thơ gợi nhiều liên tưởng phong phú Cũng giống như “hàng cây đứng tuổi”, khi con người từng va chạm, nếm trải nhiều trong cuộc sống thì sẽ vững vàng hơn, chín chắn hơn trước mọi tác động bất thường của ngoại cảnh. Con người lúc “sang thu” không còn bồng bột, sôi nổi, ào ạt như thời thanh xuân mà trưởng thành hơn, điềm đạm hơn và sâu sắc hơn. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ (1977) ta còn có thể hiểu: Sấm là những khó khăn thử thách mà dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và Mỹ. Hàng cây đứng tuổi là hình ảnh của đất nước, dân tộc ta vững vàng vượt qua thử thách, vững vàng vượt lên phiá trước. Trong khổ thơ cuối cùng này nếu để ý một chút, ta sẽ thấy đến đây, tâm thế thi sĩ rõ ràng là không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều đó. Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì? Về một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái nhau. Ba câu trên : nắng “vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ; sấm “bớt bất ngờ” càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng, một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Ấy là sự từng trải tăng lên, là cây đã trưởng thành. Ở đây, sấm bớt gây bất ngờ (là sấm đã e cây), hay cây bớt bị bất ngờ (là cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem hình như cái vế sau mới là quan trọng. Vì thế mà khổ thơ không chỉ tả cảnh sang thu mà đã chất chứa suy ngẫm của tác giả về đời người, về đất nước lúc sang thu. Tóm lại, chỉ vẻn vẹn có ba khổ thơ với thể thơ năm chữ, nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm cuộc đời, hơi ấm của quê hương và cả những cảm xúc rất tinh tế, rất chân thật của nhà thơ trước sự thay đổi của đất trời của con người, của đất nước theo thời gian. Cùng với những bài thơ thu bất hủ của các nhà thơ lớp trước, Hữu Thỉnh đã tô điểm thêm cho vườn thơ một thoáng giao mùa tuyệt đẹp của thiên nhiên. Cả bài thơ cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn vườn ngõ. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông nước đang chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt đất. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật . Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành một chỉnh thể khá tự nhiên : từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều sâu Đằng sau khúc giao mùa tuyệt diệu ấy chúng ta nhận ra tâm tư của thi sĩ. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một ( Hình như thu đã về), là đến niềm say sưa ở khổ hai (Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm( Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi) Các lớp nghĩa của bài thơ: Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài thơ như một bức tranh thiên nhiên. Nhưng, nếu chỉ thế thôi, Sang thu cũng mới là thơ tả cảnh. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì mới hơn so với các tiếng thơ thuộc thi đề thu của những người đi trước. Đồng thời, cũng chưa phổ được vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần của thế hệ mình. Ai cũng có thể thấy những ẩn ý nào đó thấp thoáng sau lối viết ẩn dụ trong các hình ảnh thơ rải rác ngay từ đầu sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã v.v Nhưng nếu chỉ có thế thì ý nghĩa của chúng còn lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói sinh động về sự vật, chưa đủ tạo hẳn ra một lớp nghĩa khác cho văn bản. Lớp nghĩa kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh cuối cùng đột hiện : Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ “đứng tuổi” bật sáng, phát động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ nói cây, mà còn nói người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào cây là bề sâu. Tự dưng, chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên nhiên rải khắp bài thơ bỗng bừng dậy một lớp nghĩa khác gắn với con người và cuộc đời, với đất nước. Có lẽ đây mới mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh phả vào trong bài thơ này. NÓI VỚI CON – Y Phương I/KHÁI QUÁT CHUNG 1/ Tác giả Y Phương là một nhà thơ dân tộc Tày quê ở Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ”. 2/Tác phẩm a/Hoàn cảnh sáng tác 1980, khi con gái ông mới 1 tuổi, kinh tế cả nước còn nhiều khó khăn (vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mĩ, lại phải chiến tranh biên giới pía Nam, pía Bắc; những khó khăn, đói khổ của thời kì bao cấp -> ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức con người) -> chỉ hiểu rõ về những khó khăn, những truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dân tộc mình, từ đó thủy chung, tự hào, tự tin, tự lập xây dựng, phát triển quê hương đất nước mới được vững bền. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người dân. In trong tập “Thơ Việt Nam (1945-1985)” Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn Bài thơ là lời tâm sự của tôi vớiđứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”. Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này. b/ Mạch cảm xúc và bố cục * Mạch cảm xúc Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình. Bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộc lộ, dẫn dắt một cách tự nhiên, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía. *Bố cục Phần 1: Từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”: Nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: . Phần 2: Còn lại: Nói với con về đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Bố cục chặt chẽ, lớp lang, đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống. c/Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật. Nội dung Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Nghệ thuật Giọng điệu trìu mến, tha thiết Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng. Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm vang Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo. d/ Giải nghĩa từ Người đồng mình: người vùng mình, người miền mình. Đây có thể hiểu cụ thể là những người cùng sống trên một miền đất, cùng một quê hương, cùng một dân tộc. Lờ: một loại dụng cụ dùng để đánh bắt cá, được đan bằng những nan vót tròn. Ken: làm cho thật kín bằng cách đệm thêm vào những chỗ hở. Người miền núi thường dùng nhiều tấm ván gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nhà. Ken ở đây là động từ, được hiểu như đan, cài, kết. Thung (thung lũng): dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi, núi. II/ PHÂN TÍCH 1/Khổ 1: Người cha nói với con về tình cảm cội nguồn. a/ 4 câu đầu : Khi nói với con về cội nguồn sinh dưỡng, điều đầu tiên người cha muốn nói tới là tình cảm gia đình – cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành Mở đầu bài thơ tác giả viết : (trích 4 câu đầu) Bốn câu thơ ngắt nhịp 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại: chân phải - chân trái, rồi một bước - hai bước,; rồi lại “tiếng nói - tiếng cười”. tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt. Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười. Ta có thể tưởng tượng được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng. Nó gợi người đọc hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống hằng ngày: đứa con đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói; lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu
File đính kèm:
- giao_an_day_them_ngu_van_khoi_9_van_ban_dong_chi.docx