Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Mùa xuân nho nhỏ"

I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:

1/ Tác giả:

- Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học CM ở miền Nam từ những ngày đầu.

- Thơ Thanh Hải thường ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi sự hi sinh của nhân dân miền Nam và khẳng định niềm tin vào chiến thắng của CM.

- Thơ ông bình dị, ngôn ngữ giàu nhạc điệu hình ảnh; cảm xúc chân thành, đằm thắm và mãnh liệt

2/Tác phẩm:

a/Hoàn cảnh sáng tác:

- Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11/ 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh (1 tháng sau thì nhà thơ qua đời- 18-12-1080), đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách.

b/Thể thơ:

- Thể thơ 5 chữ có âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết, giàu chất nhạc và gắn với các làn điệu dân ca.

c/Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp miêu tả

d/ Mạch cảm xúc:

- Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời.

- Từ đó, mở rộng ra liên tưởng đến hình ảnh mùa xuân của đất nước hôm nay và cả đất nước bốn ngàn năm.

- Rồi mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

- Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại cũng tự nhiên, đằm thắm trong niềm tự hào về quê hương qua một làn điệu dân ca xứ Huế.

e/Bố cục: 4 đoạn

- Khổ 1: Cảm xúc trước hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.

- Khổ 2,3: Cảm xúc trước hình ảnh mùa xuân của đất nước.

- Khổ 4,5: Những suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ

- Khổ 6: Cảm xúc của tác giả trước làn điệu dân ca xứ Huế.

 

docx 8 trang linhnguyen 17/10/2022 3580
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Mùa xuân nho nhỏ"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Mùa xuân nho nhỏ"

Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Mùa xuân nho nhỏ"
MÙA XUÂN NHO NHỎ
-Thanh Hải-
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/ Tác giả:
Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học CM ở miền Nam từ những ngày đầu.
Thơ Thanh Hải thường ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi sự hi sinh của nhân dân miền Nam và khẳng định niềm tin vào chiến thắng của CM.
Thơ ông bình dị, ngôn ngữ giàu nhạc điệu hình ảnh; cảm xúc chân thành, đằm thắm và mãnh liệt
2/Tác phẩm:
a/Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11/ 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh (1 tháng sau thì nhà thơ qua đời- 18-12-1080), đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách.
b/Thể thơ: 
Thể thơ 5 chữ có âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết, giàu chất nhạc và gắn với các làn điệu dân ca.
c/Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp miêu tả
d/ Mạch cảm xúc: 
Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời. 
Từ đó, mở rộng ra liên tưởng đến hình ảnh mùa xuân của đất nước hôm nay và cả đất nước bốn ngàn năm. 
Rồi mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. 
Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại cũng tự nhiên, đằm thắm trong niềm tự hào về quê hương qua một làn điệu dân ca xứ Huế.
e/Bố cục: 4 đoạn
Khổ 1: Cảm xúc trước hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.
Khổ 2,3: Cảm xúc trước hình ảnh mùa xuân của đất nước.
Khổ 4,5: Những suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ 
Khổ 6: Cảm xúc của tác giả trước làn điệu dân ca xứ Huế.
g/Khái quát nội dung và nghệ thuật
*/Nội dung: 
Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
*/Nghệ thuật: 
Bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, so sánh ẩn dụ và sáng tạo.
h/Nhan đề:dùng tính từ nho nhỏ để hữu hình hóa mùa xuân
Nghĩa thực nó gợi lên mùa xuân của đất trời, thiên nhiên
“Mùa xuân” là thời gian vốn vô hình, trừu tượng lại được gắn với tính từ “nho nhỏ”- một từ láy gợi hình- làm cho mùa xuân như có hình khối. 
Đây là một ẩn dụ đầy sáng tạo nói về một cuộc đời đẹp đẽ, một lẽ sống cao cả, một ý thức khiêm nhường và một khát vọng được cống hiến những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. 
-> Bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.
II/PHÂN TÍCH:
1/ Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên 
Bức tranh của thiên nhiên được vẽ bằng nét chấm phá nhưng rất đặc sắc .
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc, 
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, động từ “mọc” được đặt lên đầu câu thơ, đầu khổ thơ 
không chỉ tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột, bất ngờ, mới lạ mà còn làm cho hình ảnh, sự vật trở nên sống động như đang diễn ra trước mắt. 
Người đọc tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn ra, xoè nở trên mặt nước giữa dòng sông xuân. 
Hình ảnh thơ ở đây rất quen thuộc: dòng sông xanh, bông hoa tím, con chim chiền chiện hót vang trời. 
Đó là hình ảnh bình dị, gợi không gian cao rộng, trong trẻo, ấm áp của mùa xuân. Và trên gam màu xanh của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. 
Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải lại là màu tím biếc đậm đà bản sắc của cố đô Huế. Màu sắc mới hài hòa, tươi sáng, đầy sức sống làm sao! 
Còn âm thanh của chim chiền chiện thì tươi vui: “Hót chi mà vang trời”.
Chỉ vài nét phác hoạ mà tác giả đã vẽ ra cả một không gian cao rộng với dòng sông và bầu trời bao la, cả màu sắc tươi thắm của mùa xuân, cả âm thanh rộn ràng của tiếng chim
Khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp, tràn trề nhựa sống
Cảm xúc say sưa, tươi vui giao hòa với thiên nhiên đất trời. 
Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, nhà thơ thể hiện nhìn trìu mến với cảnh vật trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên " ơi”, “hót chi mà"
Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình vừa trân trọng vừa tha thiết với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.“Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”.
Hai câu này có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. 
“Giọt long lanh” có thể là giọt mưa xuân, giọt sương mùa xuân rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá .
Ở đây, “giọt long lanh” cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyến đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyến thành từng giọt (hình, khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng cả xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”. Nó giúp người đọc tưởng như tác giả không chỉ nghe thấy mà còn nhìn thấy giọt âm thanh long lanh, trong vắt.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh thiên nhiên đất trời khi vào xuân. 
Nhà thơ đã dang rộng cánh tay, mở rộng tâm hồn, huy động mọi giác quan để đón nhận hương sắc mùa xuân.
Tóm lại, khổ thơ có lời thơ giản dị, hình ảnh đẹp, gợi cảm, nhạc điệu trong sáng, thiết tha, ẩn dụ sáng tạo.
Qua đó ta thấy phải là người tinh tế nhạy cảm, yêu thiên nhiên say đắm, trân trọng vẻ đẹp của mùa xuân, Thanh Hải mới vẽ nên được một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống như vậy!
2/Khổ 2+3 Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất nước. 
Khổ 2: Trước hết, ở khổ hai, tác giả khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước
“Mùa xuân người cầm súng 
 Lộc giắt đầy trên lưng
 Mùa xuân người ra đồng
 Lộc trải dài nương mạ”
Điệp từ “mùa xuân”, “lộc” làm cho nhịp thơ nhanh, hối hả, gấp gáp; gợi quang cảnh xùa xuân tươi đẹp đầy chồi non, lộc nõn; gợi thành quả trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Hình ảnh
“Người cầm súng” vừa là hiện thực gian khổ của chiến tranh vừa là hoán dụ chỉ người chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. . 
Hình ảnh này lại đi với “Lộc giắt đầy trên lưng” gợi người đọc nhiều liên tưởng.
+Nó gợi liên tưởng đến những cành lá ngụy trang giắt trên lưng người lính
+Nó có thể hiểu là ẩn dụ cho mùa xuân mà những người cầm súng mang lại cho đất nước.
+Nó cũng có thể hiểu người lính mang theo cả mùa xuân trên lưng để ra trận
+Cũng có thể hiểu là vẻ đẹp tâm hồn người lính tràn đầy tình yêu cuộc sống tràn đầy sức xuân và sắc xuân
+Dù hiểu theo cách nào thì lời thơ cũng toát lên một sức sống đang căng tràn
Người ra đồng là hình ảnh người lao động ở hậu phương, là hoán dụ chỉ những người sản xuất làm giàu đất nước
‘Lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng cánh đồng màu mỡ, xanh tươi, gợi bàn tay gieo trồng sự sống
Điệp ngữ “tất cả”, điệp cấu trúc câu, từ láy “hối hả”, “xôn xao”, đã cho thấy nhịp sống đang sôi động, khẩn trương, Tất cả như đang rạo rực, đang nảy nở, sinh sôi tràn đầy sức sống.
Khổ 3: Từ đó ông bày tỏ niềm tự hào về quê hương đất nước, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước ở khổ ba.
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Nghệ thuật nhân hóa, tính từ “vất vả”, “gian lao” đã đúc kết lịch sử dân tộc đầy đau thương, mất mát song cũng rất đáng tự hào. Đó là bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, gian khổ mà hào hùng của cha ông.
Thủ pháp so sánh “Đất nước như vì sao, cứ đi lên phía trước”.
Biện pháp nghệ thuật này gợi vẻ đẹp tươi sáng của đất nước trên con đường đi tới tương lai. Qua đó tác giả bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. 
Đất nước ấy mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai, đi đến bến bờ hạnh phúc. 
Đó cũng chính là ý chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. 
Tóm lại, khổ thơ có lời thơ giản dị, hình ảnh đẹp, gợi cảm, nhạc điệu trong sáng, thiết tha, biện pháp tu từ sáng tạo, giọng thơ vừa tha thiết, sôi nổi vừa trang trọng, 
Tất cả đã gói trọn niềm yêu mến, tự hào tin tưởng của nhà thơ vào đất nước.
3/Khổ 4+5: Suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ
Từ những cảm xúc về mùa xuân của đất trời, đất nước, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người:
Khổ bốn là ước nguyện chân thành, khiêm tốn của tác giả.
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Điệp ngữ “ta làm”, điệp cấu trúc-> giúp tác giả bày tỏ ước nguyện được hiến dâng cuộc đời mình cho quê hương, xứ sở; nhấn mạnh những ước nguyện tuy đơn sơ, bình dị nhưng da diết, trăn trở của nhà thơ.
Bên cảnh đó, tác giả còn sử dụng liệt kê: “con chim hót” “một cành hoa” “nốt nhạc trầm”: 
Ông muốn làm “con chim hót” hót vui cho đời, làm “một cành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư toả hương sắc . 
Đồng thời, ông còn muốn cho đời làm “một nốt trầm” giữa bản hoà tấu muôn điệu, dù chỉ là nốt nhạc ở cung bậc thấp nhưng cũng đủ làm “xao xuyến lòng người”.
Nhà thơ khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. 
Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành, khiêm nhường trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp. Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của mình. 
Khổ này có sự ứng đối với các hình ảnh ở đầu bài thơ. Các hình ảnh con chím, đóa hoa, nốt nhạc có sự lặp lại. Điều này cho thấy theo tác giả lí tưởng cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên, tất yếu; gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người – đất nước.
Đặc biệt, ở khổ đầu tác giả xưng hô là “tôi” đến đây lại xưng hô là "ta" cho thấy đây vừa là ước nguyện của tác giả vừa là ước nguyện chung của mọi người.
Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ „tôi”, sang phần sau lại dùng đại từ „ta”. 
Điều này không phải là ngẫu nhiên mà là dụng ý nghệ thuật của tác giả. 
“Tôi” và “ta” đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất những “tôi” là chỉ số ít, còn “ta” là chỉ số nhiều trong đó có “tôi”. 
Phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ „tôi“ thích hợp để nói cảm xúc riêng của mình trước vẻ đẹp của mùa xuân.
Phần sau, chủ thể trữ tình chuyển sang xưng „ta“ là phù hợp. Nó không chỉ nói lên tâm nguyện của tác giả mà còn là ước nguyện cao đẹp chung của mọi người muốn cống hiến một phần nhỏ bé của mình cho cuộc đời, cho đất nước.
Vì thế sự chuyển đổi này phù hợp với sự chuyến biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ; thể hiện được chủ đề của tác phẩm
Khổ năm :Lẽ sống cống hiến của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải trong khổ này rất chính xác, tinh tế và gợi cảm. 
Trước hết, ở đây tác giả sử dụng thành công đảo ngữ “lặng lẽ” và ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”. 
Mùa xuân là thời gian vốn vô hình, trừu tượng lại được gắn với tính từ “nho nhỏ”- một từ láy gợi hình- làm cho mùa xuân như có hình khối. 
Đây là một ẩn dụ đầy sáng tạo nói về một cuộc đời đẹp đẽ, một lẽ sống cao cả, một ý thức khiêm nhường và một khát vọng được cống hiến những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. 
Cặp từ láy "nho nhỏ", "lặng lẽ" càng cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường. Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến. 
Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. 
Điều này được thể hiện trong các hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc”, điệp ngữ "dù là" nhắc lại hai lần. Nó như tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất nước. Đây là một vấn đề nhân sinh nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn!
Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ một khát khao được dâng hiến”.
Đây không chỉ là khẩu hiệu của một thanh niên bước vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng, vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích. Khát vọng ấy, lí tưởng ấy thật cao đẹp biết bao!
Lẽ sống ấy cũng được nhà thơ Tố Hữu bộc lộ::
                                                           “Nếu là con chim chiếc lá
                                                   Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
                                                             Lẽ nào vay mà không trả
                                                   Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Tóm lại, khổ thơ có lời thơ giản dị, hình ảnh đẹp, gợi cảm, nhạc điệu trong sáng, thiết tha, biện pháp tu từ sáng tạo.
Tất cả cho thấy tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
4/ Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối)
Như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên đem lại thi vị Huế trìu mến tha thiết.
“Mùa xuân - ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phác tiền đất Huế".
Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hoà vào vĩnh viễn. Nhưng đây không phải là lời ca buồn thủa trước “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa. - “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. 
Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sỹ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
III/Tổng kết
*Nghệ thuật 
Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca.Hình ảnh tự nhiên, giản dị
Cấu tứ bài thơ chặt chẽ: từ mùa xuân đất trời à đất nước à con người.
Giọng điệu thể hiện đúng tâm trạng
Cảm xúc của tác giả ở từng đoạn vui, say sưa à trầm lắng trang nghiêm à sôi nổi thiết tha.
*Nội dung: 
Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc

File đính kèm:

  • docxgiao_an_day_them_mon_ngu_van_lop_9_van_ban_mua_xuan_nho_nho.docx