Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương"
I/ KHÁI QUÁT CHUNG
1.Tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, là người đặt nền móng cho văn chương tự sự nước nhà. Ông sống ở thế kỉ XVI - giai đoạn xã hội phong kiến lâm vào cảnh loạn li, suy yếu.
- Ông học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi từ quan, ở ẩn. Ông là một ẩn sĩ tiêu biểu, một nhà nho luôn sống thanh cao trọn đời.
- Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ông thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó.
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ mười sáu và là thiên tiêu biểu trong tập truyện này.
.
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Vào thế kỉ 16: chế độ phong kiến đang suy vong, bất công, tàn bạo, gây nhiều đau khổ cho mọi người, nhất là người phụ nữ .
- Đây là tác phẩm được sáng tác theo thể ruyện truyền kỳ. Tác giả mượn yếu tố hoang đường để phản ánh văn đề của hiện thực, dựa vào cơ sở một truyện cổ tích thêm nội dung mang yếu tố thời đại.
- Xuất xứ: Đây là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
3. Tóm tắt
- Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính sau khi cưới ít lâu.
- Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lời con, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi.
- Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu.
- Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang, nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng.
- Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ lời tạ từ rồi biến mất.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương"
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG - Nguyễn Dữ- I/ KHÁI QUÁT CHUNG 1.Tác giả, tác phẩm Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, là người đặt nền móng cho văn chương tự sự nước nhà. Ông sống ở thế kỉ XVI - giai đoạn xã hội phong kiến lâm vào cảnh loạn li, suy yếu. Ông học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi từ quan, ở ẩn. Ông là một ẩn sĩ tiêu biểu, một nhà nho luôn sống thanh cao trọn đời. Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ông thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ mười sáu và là thiên tiêu biểu trong tập truyện này. . 2. Hoàn cảnh sáng tác Vào thế kỉ 16: chế độ phong kiến đang suy vong, bất công, tàn bạo, gây nhiều đau khổ cho mọi người, nhất là người phụ nữ . Đây là tác phẩm được sáng tác theo thể ruyện truyền kỳ. Tác giả mượn yếu tố hoang đường để phản ánh văn đề của hiện thực, dựa vào cơ sở một truyện cổ tích thêm nội dung mang yếu tố thời đại. Xuất xứ: Đây là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”. 3. Tóm tắt Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính sau khi cưới ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lời con, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu. Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang, nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ lời tạ từ rồi biến mất. 4.Nhan đề : Truyền kì mạn lục: (ghi chép tản mạn những truyện lạ được lưu truyền trong dân gian ) là một tác phẩm văn xuôi tự sự, viết bằng chữ Hán. Tác phẩm được coi là áng “thiên cổ kì bút ”( áng văn hay của ngàn đời). 5. Ngôi kể : ngôi thứ 3. 7. Phương thức biểu đạt : Tự sự + biểu cảm. 8. Khái quát nội dung và nghệ thuật: *Giá trị hiện thực: Phản ánh hiện thực XHPK bất công với chế độ nam quyền, chà đạp lên số phận người phụ nữ Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc. Phản ánh XHPK với những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho cuộc sống của người dân càng rơi vào bế tắc. *Giá trị nhân đạo: Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Vũ Nương. Thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ và ước mơ, khát vọng về 1 cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho họ Gián tiếp lên án, tố cáo XHPK bất công: *Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật dựng truyện: kịch tính, hấp dẫn và sinh động. Chi tiết nghệ thuật đắt : cái bóng Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được khắc hoạ tâm lí và tính cách thông qua lời nói (đối thoại) và lời tự bạch (độc thoại). Sử dụng yếu tố truyền kì ( kì ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Kết hợp các Phương thức biểu đạt: tự sư và biểu cảm làm nên 1 áng văn xuôi tự sự còn sống mãi với thời gian. II/ PHÂN TÍCH 1. Nhân vật Vũ Nương a. Vẻ đẹp hoàn hảo Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo. Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau. * Với Trương Sinh: Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị; lời lẽ mới tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha biết chừng nào! Nó chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”. Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa chồng Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức . Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Câu văn đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa cảnh thì đông vui, quấn quýt, giao hòa còn lòng người thì lẻ loi trống vắng. Qua đó tác giả diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi nhớ nhung, niềm mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Nó chứng tỏ nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay: " Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong" (Chinh phụ ngâm) Nàng còn giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, tình cảm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Thậm chí, ngay cả những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Bởi thế, vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không có chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha. Nàng đúng là người vợ hiền thục, thủy chung * Với mẹ chồng, với con: Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con. Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ". Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : Nàng muốn gieo vào lòng người con tình cảm về người cha mà nó chưa hề gặp mặt. Để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha. Quả thực, Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật Vũ Nương một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. * Là người trọng nhân phẩm và tình nghĩa Khi bị nghi oan nàng Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Bởi một người đức hạnh như VN, nàng k thể chấp nhận sống mà bị mọi người coi thường, phỉ nhổ. Chỉ có cái chết mới giúp nàng bảo toàn được nhân phẩm. Ở dưới thủy cung, dù nhớ thương quê hương da diết, nàng vẫn giữ lời hứa với Linh Phi. Điều đó chứng tỏ nàng rất coi trọng tình nghĩa. Vũ Nương quả là người phụ nữ hoàn hảo, mang trong mình nét đẹp truyền thống của người phụ nữ VN. Phản ánh vẻ đẹp của nàng, tác giả thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng sâu sắc. b. Số phận bất hạnh *Có cuộc sống vất vả, cô đơn Lấy chồng nàng phải một mình gánh vác giang sơn nhà chồng, phải một mình sinh con, nuôi dậy con thơ, phải chăm sóc mẹ chồng lo ma chay cho bà. Lấy chồng chẳng được bao lâu thì chồng đi lình. Ở nhà nàng sống thui thủi một mình, cô đơn vò võ k có chồng ở bên để dỡ đần tâm sự. Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. *Chịu nỗi oan lạ lùng Nỗi oan: Ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé lòng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa” Bi kịch dâng tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Chao ôi, chỉ vì lời nói ngây thơ của một đứa trẻ mà phải kết thúc số phận một con người! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế???... Nguyên nhân: Vậy tại sao một người phụ nữ hoàn hảo như Vũ Nương lại phải chịu một nỗi oan thảm khốc như vậy? Trực tiếp: Phải chăng đó là do là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ "Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít... đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi" làm cho Trương Sinh nghi ngờ và kết tội Vũ Nương. Gián tiếp: Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. rồi cái tính đa nghi, hay ghen cùng với cách cư xử hồ đồ, phũ phàng của người không có học đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Chàng bỏ ngoài tai những lời biện bạch, thanh minh, thậm chí là van xin của vợ, chỉ biết la lên cho hả giận. Vì thế mà lời nói thật thà, ngây thơ của đứa trẻ đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức về địa vị xã hội ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến vàlễ giáo hà khắc đã làm cho người phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo vệ mình. Chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường chết để tự giải thoát. Dẫn đến bi kịch của VN, còn phải kể đến các cuộc chiến tranh phong kiến.Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ. Nếu chiến tranh không nổ ra thì có lẽ Vũ Nương không phải gánh chịu bi kịch đau thương này! Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế! Có con phải khổ vì con/Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” *Phải sống cuộc sống k thực sự hạnh phúc ở thủy cung Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Nàng luôn mong muốn được trở về. Điều đó chứng tỏ nàng đâu có hạnh phúc khi ở đây. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Tác phẩm cho thấy số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ nam quyền phong kiến đầy bất công. Tố cáo XHPK xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình Bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ; trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, giá trị của người phụ nữ. Đồng thời tác giả còn thể hiện ước mơ về hạnh phúc cho người phụ nữ. 2/ Ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo *Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện: Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa. Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế. Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất. * Cách đưa các chi tiết kỳ ảo: Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. * Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo: Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ. Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự. Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện. Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta. Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Tăng ý nghĩa tố cáo cho tắc phẩm. III/ LUYỆN TẬP: Bài 1/ Hình ảnh chiếc bóng có ý nghĩa như thế nào? *Ý nghĩa chi tiết cái bóng Chi tiết cái bóng tưởng như vô hình, ngẫu nhiên nhưng thực ra là 1 chi tiết rất quan trọng được cài đặt đầy dụng ý. Cái bóng trong câu chuyện có ý nghĩa đặc biệt vì đây là chi tiết tạo nên các thắt nút và mở nút hết sức bất ngờ. *Cái bóng có vai trò thắt nút câu chuyện vì Đối với Vũ Nương: xuất hiện mang ý nghĩa hoàn toàn tốt đẹp : dỗ con, cho khuây nỗi nhớ thương chồng Với bé Đản: biến thành người thật – người đàn ông đêm nào cũng về- không nói không cười. Với Trương Sinh: là bằng chứng không thể chối cãi cho sự hư hỏng của vợ. *Cái bóng cũng là chi tiết mở nút câu chuyện: Chàng Trương sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là cái bóng của chàng trên tường được bé Đản gọi là cha. Bao nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được hoá giải nhờ cái bóng. *Ý nghĩa: Cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi của người vợ trẻ khi xa chồng. Nó là lòng nhớ thương, chung thủy là khao khát sum họp đoàn tụ. Là tình thương con của người mẹ, muốn bù đắp sự thiếu vắng tình cha. Đó là trò đùa trong nhớ thương, một sự nói dối đầy thiện chí và yêu thương. Nó gợi sự gắn bó như hình với bóng. Vậy mà nó lại là con dao chia cắt, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ trẻ. Chiếc bóng gây ra nỗi oan, chính nó giải oan cho nàng. Cách thắt nút, mở nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức, giá trị tố cáo XHPK nam quyền đầy bất công với người phụ nữ càng thêm sâu sắc. Thể hiện được tài năng của Nguyễn Du. Nó khẳng định “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Bài 2/ Sự trở về của Vũ Nương ở phần kết của tác phẩm đã hoá giải bi kịch trong truyện. ý kiến của em? Gợi ý : Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi, là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình. III/Tổng kết Để khắc hoạ nhân vật Vũ Nương, tác giả đã rất tài năng khi dựng truyện: kịch tính, hấp dẫn và sinh động. Nhân vật được khắc hoạ tâm lí và tính cách thông qua lời nói (đối thoại) và lời tự bạch (độc thoại). Yếu tố kì ảo được sử dụng hiệu quả làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đồng thời truyện còn kết hợp chặt chẽ các phương thức biểu đạt: tự sư và biểu cảm Xây dựng được chi tiết nghệ thuật đắt giá. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ, thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt của họ, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống, lên tiếng bào vệ quyền sống cho họ.
File đính kèm:
- giao_an_day_them_mon_ngu_van_lop_9_van_ban_chuyen_nguoi_con.docx