Đề bài: Phân tích văn bản "Bếp lửa"
Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt như một lời tâm sự, giọng thơ sâu lắng, trầm tư đã khơi gợi cho người đọc nhiều cảm xúc. “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu thiêng liêng, đó cũng là lời tri ân với bà, với quê hương, đất nước.
Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm thời thơ ấu sống với bà với bao tình cảm yêu thương. Đứa cháu nay đã khôn lớn, trưởng thành, từ nơi xa nhớ về bà. Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Bạn đang xem tài liệu "Đề bài: Phân tích văn bản "Bếp lửa"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề bài: Phân tích văn bản "Bếp lửa"
PHÂN TÍCH BÀI THƠ: BẾP LỬA Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt như một lời tâm sự, giọng thơ sâu lắng, trầm tư đã khơi gợi cho người đọc nhiều cảm xúc. “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu thiêng liêng, đó cũng là lời tri ân với bà, với quê hương, đất nước. Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm thời thơ ấu sống với bà với bao tình cảm yêu thương. Đứa cháu nay đã khôn lớn, trưởng thành, từ nơi xa nhớ về bà. Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đi liền với các từ láy “chờn vờn, ấp iu” gợi cho ta cái cảm giác ấm áp và tình cảm chứa chan. Hình ảnh “bếp lửa chờn vờn sương sớm” là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong trái tim của mỗi người. “Chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa gợi tả ánh lửa lúc ẩn, lúc hiện khi mờ khi tỏ, rất phù hợp với dòng kí ức được tái hiện khi bụi thời gian đã xóa mờ dần kỉ niệm. Từ láy “ấp iu” thể hiện sự ấp ủ, nâng niu, đó cũng chính là tình cảm sâu sắc bà dành cho cháu. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà là hình ảnh người bà gian nan trải qua “biết mấy nắng mưa”. Hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả cảnh đói kéo dài. Các từ ngữ: “khô rạc và gầy” cho thấy cái đói khiến con người và vạn vật kiệt sức, gầy guộc, rã rời. Trong những năm tháng ấy, nhờ sự tần tảo, lam lũ của bà đã giúp gia đình vượt qua khó khăn. Vị “khói hun hèm mắt” đã khiến mắt cháu cay, không những cay vì mùi khói mà đó còn là nỗi buồn tủi trước cảnh đói kém của gia đình, đất nước. Đó là nỗi cay đắng trước những kỉ niệm đói khổ của nhiều người, trong đó có hai bà cháu tác giả. Kỉ niệm khó quên khác trong kí ức của tác giả là âm thanh tiếng chim tu hú: “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế” “Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, khiến cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. “Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!” Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, hẩm hiu chỉ có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu, hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh bếp lửa. Phép liệt kê các hành động“ bảo, dạy, chăm” đã diễn tả môt cách sâu sắc tấm lòng nhân hậu, gánh vác mọi việc và yêu thương cháu tha thiết của bà. Ngoài sự tần tảo, tình yêu thương bà còn rộng đức hi sinh, là chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nơi nương náu để hai bà cháu sinh sống. Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ? Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu chuyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ để tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi... “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không để đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu. Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa: “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường của đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhỏ, tưởng chừng đơn giản: “ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm” Hình ảnh bếp lửa “ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi” Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” “Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy đấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh: “Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng.” Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà: “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vớí chân trờì mới, chính tình cảm cuả hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong mùa đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Trong tình cảm của bà có tình cảm của đất nước, tác giả nhớ đến tình bà cũng là nhớ đến đất nước quê hương. Có người từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Qua bài thơ, bạn đọc sẽ hình dung ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Bếp lửa là hình ảnh đẹp nhằm gợi tả sự ấm áp của gia đình đối với mỗi người. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng. Bài thơ “Bếp lửa” là tình cảm của Bằng Việt giành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người. Từ bếp lửa của củi rơm đến “Bếp lửa” của lòng người, bài thơ đã giúp chúng ta cảm nhận thật rõ về tình bà cháu, tình quê nồng ấm.
File đính kèm:
- de_bai_phan_tich_van_ban_bep_lua.doc