Đề bài: Phân tích tác phẩm "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương

1/ Tác giả :

- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang.

- Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước.

- Ông sáng tác cả thơ và văn xuôi, nhưng người đọc biết đến ông với cương vị một nhà thơ. Thơ ông giản dị, tình cảm thiết tha, sâu lắng

2/ Tác phẩm

a/Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ :

- Bài thơ được sáng tác vào 4/1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác trong dịp đó.

- In trong tập "Như mây mùa xuân” (1978).

b/ Đọc

c/ Thể thơ:tự do

d/ PTBĐ:Biểu cảm kết hợp miêu tả.

e/ Mạch cảm xúc:

- Cảm xúc bao trùm: niềm xúc động, kính yêu, lòng biết ơn, tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi vào lăng viếng Bác.

- Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra theo trình tự một cuộc vào lăng viếng Bác: đầu tiên là tâm trạng bồi hồi xúc động của tác giả khi đứng trước lăng, tiếp đến là nỗi đau đớn tiếc thương của tác giả khi bước vào lăng và cuối cùng là tâm trạng lưu luyến bịn rịn muốn mãi ở bên Bác khi rời lăng.

 

docx 7 trang linhnguyen 17/10/2022 3160
Bạn đang xem tài liệu "Đề bài: Phân tích tác phẩm "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề bài: Phân tích tác phẩm "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương

Đề bài: Phân tích tác phẩm "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương
 VIẾNG LĂNG BÁC -Viễn Phương-
 "Vì sao trái đất nặng ân tình	
	Nhắc mãi tên Người Hồ Chí Minh"	
	Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.Người đã cống hiến trọn cuộc đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước.Năm 1969, Bác đã ra đi để lại bao nỗi xót xa, mong nhớ trong lòng con dân đất Việt.
Để thể hiện lòng nhớ thương đối với Bác, đã có rất nhiều vần thơ hay, xúc động viết về Người. Trong đó “VLB” là một trong những bài thơ tiêu biểu. Tuy là một bài thơ ra đời khá muộn, nhưng "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương vẫn để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng, bởi đó là tình cảm của một người con miền Nam lần đầu được gặp Bác. Toàn bài thơ là một lời tâm sự thiết tha, là nỗi lòng thành kính và tha thiết của một người con miền Nam đối với Bác Hồ.
I/Đọc- hiểu chung văn bản
1/ Tác giả :
Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang.
Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước.
Ông sáng tác cả thơ và văn xuôi, nhưng người đọc biết đến ông với cương vị một nhà thơ. Thơ ông giản dị, tình cảm thiết tha, sâu lắng
2/ Tác phẩm
a/Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ : 
Bài thơ được sáng tác vào 4/1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác trong dịp đó.
In trong tập "Như mây mùa xuân” (1978).
b/ Đọc
c/ Thể thơ:tự do
d/ PTBĐ:Biểu cảm kết hợp miêu tả.
e/ Mạch cảm xúc:
Cảm xúc bao trùm: niềm xúc động, kính yêu, lòng biết ơn, tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi vào lăng viếng Bác.
Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra theo trình tự một cuộc vào lăng viếng Bác: đầu tiên là tâm trạng bồi hồi xúc động của tác giả khi đứng trước lăng, tiếp đến là nỗi đau đớn tiếc thương của tác giả khi bước vào lăng và cuối cùng là tâm trạng lưu luyến bịn rịn muốn mãi ở bên Bác khi rời lăng.
II/ĐỌC - HIỂU CHI TIẾT VĂN BẢN
1/Khổ 1+2: Cảm xúc của tác giả khi ở ngoài lăng
*Khổ 1: Tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào miền Nam muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác.
-Câu 1:
Câu thơ mở đầu giản dị như câu văn xuôi, một lời thông báo “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”, nhưng ẩn chứa bên trong đó là niềm xúc động bồi hồi của người con từ miền Nam – nơi Bác ra đi tìm đường cứu nước mà chưa có ngày trở về, nơi Bác luôn mong mỏi nhớ thương “ Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà » (Tố Hữu), nơi tuyến đầu của Tổ quốc, nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời , nơi vừa chiến thắng kẻ thù “ra thăm lăng Bác”. Như vậy, đây không đơn giản là chuyến đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. 
Cách xưng hô “con” với “Bác” thể hiện sự thân mật, gần gũi, ấm áp như tình cảm của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Nhan đề dùng từ “viếng” nhưng trong câu thơ này tác giả dùng từ “thăm” ngụ ý nói giảm những đau thương mất mát cho thấy Bác như vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân miền Nam và dân tộc Việt Nam.
-Câu 2,3,4: 
Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả quan sát được, cảm nhận được, và có ấn tượng đậm nét chính là hàng tre trong sương sớm trải dài bát ngát một màu xanh khiến cho lăng Bác vừa trang nghiêm vừa cũng gần gũi, thân thuộc như xóm làng Việt Nam: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
 Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
 Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Hàng tre ấy không chỉ có ý nghĩa tả thực với vóc dáng, sắc màu, sức sống mà nó còn là một ẩn dụ. 
Nó là biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. 
Đó là một dân tộc dù gặp “bão táp mưa sa” – những khó khăn, gian khổ, những thăng trầm trong quá trình dựng nước và giữ nước đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua nhưng vẫn “đứng thẳng hàng” - vẫn đoàn kết, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, vì độc lập tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.
Chính vì thế tác giả không giấu được niềm xúc động xen lẫn tự hào được bộc lộ một cách trực tiếp qua từ cảm thán “Ôi!” 
Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
b.Khổ 2: Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng Bác
- Hai câu đầu có hai hình ảnh sóng đôi: một hình ảnh thực và một hình ảnh ẩn dụ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
 Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
Đầu tiên là mặt trời của thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng được nhân hóa với hai hành động: ngày ngày “đi” qua trên lăng và “thấy” một mặt trời khác ở trong lăng.
Và “mặt trời trong lăng” là ẩn dụ chỉ Bác Hồ. 
Thật ra so sánh Bác Hồ với mặt trời đã được các nhà thơ sử dụng từ rất lâu:
-“Hồ Chí Minh – ánh thái dương tỏa sáng đời đời” ( Lưu Hữu Phước) 
- “Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
 Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
 Đêm tàn bay chập choạng dưới chân người.”
 ( Tố Hữu – “Sáng tháng năm”) 
Nhưng đặt mặt trời Bác sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là một sáng tạo mới mẻ, độc đáo chỉ có ở Viễn Phương.
Cách nói này đã ca ngợi được sự vĩ đại, bất tử của Bác: Bác như mặt trời đem lại ánh sáng cách mạng, soi đường chỉ lối cho những con người chìm đắm trong bóng đêm nô lệ, mang lại độc lập tự do, ấm no cho dân tộc, tư tưởng của Người có sức toả rạng mãi mãi.
Đồng thời, nó còn thể hiện được sự tôn kính, ngưỡng mộ, tự hào, biết ơn của nhà thơ cũng như của nhân dân ta đối với Bác.
b.Hai câu sau
Ở đây, “Dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực cảnh ngày ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong nỗi xúc động, bồi hồi, trong lòng tiếc thương kính cẩn và nặng trĩu nỗi nhớ thương. 
Trong dòng người ấy, mỗi người như một bông hoa nối với nhau kết thành những “tràng hoa” vô tận. Đây là một ẩn dụ đẹp, một sáng tạo của nhà thơ gợi liên tưởng cuộc đời của những con người kia đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác và giờ đây những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất.
Ở cuối khổ này, nghệ thuật hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” được tác giả sử dụng thật khéo léo. 
“Bảy mươi chín mùa xuân” vừa là bảy mươi chín tuổi đời của Bác vừa nói lên được rằng Bác đã sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân và chính Bác đã làm nên những mùa xuân thật tươi đẹp cho con người, cho đất nước Việt Nam. 
Biện pháp nghệ thuật này đã diễn tả được tình cảm yêu thương, thái độ biết ơn và tự hào về vị cha già kính yêu của dân tộc. 
Từ “Ngày ngày" được điệp lại một lần nữa. Điệp lại cụm từ này, có lẽ nhà thơ muốn nhấn mạnh một chân lý: nếu mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng, tỏa ánh sáng sưởi ấm vạn vật là một điệp khúc không thay đổi của thời gian, thì công ơn của Bác ngự trị trong lòng người dân Việt Nam cũng không phai nhòa theo năm tháng. Vì thế, hình ảnh dòng người ngày ngày vào viếng lăng Bác cũng đã trở thành một điệp khúc của lòng kính yêu Bác.
Đây là những vần thơ vô cùng đẹp đẽ được viết trong nỗi xúc động lớn lao của trái tim tác giả thể hiện được tình yêu thương, sự tôn kính, đối với Bác.
2/Khổ 3:Cảm xúc của tác giả khi đứng ở trong lăng
- Hai câu đầu: Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
	 “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
 Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền”
Được tận mắt ngắm nhìn Bác kính yêu nhà thơ như quên đi 1 sự thật – Bác đã qua đời – mà ông tưởng như Bác đang ngủ thanh thản giữa vầng trăng sáng trong, sau những ngày bộn bề công việc. Đây là cách nói giảm cho thấy Bác như còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Sinh thời, Bác rất yêu trăng, trăng như một người bạn tri âm, tri kỉ, chả thế mà những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng đã từng vào thơ Bác trong nhà lao “Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ” (Ngắm trăng) , trên chiến trận “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” (Tin thắng trận), giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Bác.
Có lẽ, với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền, trong sáng như vầng trăng. Do vậy mà tác giả ca ngợi được sự rực rỡ, vĩ đại, cao siêu của con người và sự nghiệp Hồ Chí Minh..
Phải là người có trí tưởng tượng phong phú, luôn thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
b. Hai câu sau 
Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “trời xanh là mãi mãi”. 
“Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên vĩnh hằng.
“Trời xanh” phải chăng còn là hình ảnh Bác đã hoá thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn ở trên cao: “Bác sống như trời đất của ta” – Tố Hữu.
Dù vẫn tin như thế nhưng tác giả không thể không đau xót vì sự ra đi của Bác. Nỗi đau ấy đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”.
Từ “nhói” đã khắc họa nỗi đau đột ngột, quặn thắt, tê tái từ trong đáy sâu tâm hồn như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả khi đứng trước thi thể của Người. 
Đó là sự rung cảm vô cùng mãnh liệt, chân thành của nhà thơ. Cùng chung cảm xúc ấy, Tố Hữu có viết:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ xanh mây trắng bay.. 
(Bác ơi)
Khổ thơ đã thể hiện được lòng kính yêu và niềm xót thương vô hạn của tác giả khi vào trong lăng. 
3/Khổ 4: Cảm xúc của tác giả khi rời lăng
a. Câu 1:
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giản dị nhưng ẩn chứa tình cảm sâu lắng. Nó như một lời giã biệt.
Dòng cảm xúc của tác giả giờ đây đã đạt đến đỉnh điểm, tuôn trào mạnh mẽ nhất: “thương trào nước mắt”
Động từ “trào”
Tác giả thương Bác, thương đến “trào nước mắt” là một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Đó cũng là tâm trạng chung của muôn triệu người dân Việt Nam đến với Bác.
b.Câu 2,3,4 
Muốn làm : Tình thương, lòng kính yêu ấy của nhà thơ trong phút giây đầy nhớ nhung, lưu luyến này đã bật lên thành bao ước nguyện : « Muốn làm con chim..này ». .
Nhà thơ muốn làm con chim mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với Bác, muốn làm đoá hoa toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời, ông còn muốn làm cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
Dường như, ở khổ thơ này, mọi ước vọng, mọi khát khao trong tâm nguyện của nhà thơ đều quy tụ lại một điểm là mong được gần Bác, được bên Bác. 
Ước vọng ấy, khát khao ấy thật cao đẹp và trong sáng biết chừng nào! Bởi nó thể hiện được cái tâm niệm vô cùng chân thành, tha thiết của nhà thơ. Ông muốn làm một cái gì đó dù là rất nhỏ có ích cho đời để xứng đáng với sự hy sinh lớn lao mà Người đã dành cho nhân dân, cho đất nước. 
Nghệ thuật 
Để thể hiện điều này, khổ thơ đã sử dụng thành công điệp ngữ “muốn làm”. Nó được nhắc lại ba lần lại được đảo lên đầu câu cùng các hình ảnh thơ đẹp của thiên nhiên đứng sau đó (con chim, đóa hoa, cây tre) làm cho nhịp thơ dồn dập, nhấn mạnh tình cảm thiết tha, tâm trạng quyến luyến, khát vọng mãnh liệt của tác giả đối với Bác. 
Đặc biệt, ẩn dụ “cây tre trung hiếu” đã khép lại bài thơ một cách khéo léo, thể hiện lòng kính yêu và sự trung thành vô hạn của tác giả cũng như của nhân dân ta mãi đi theo con đường cách mạng mà chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã đưa đường chỉ lối.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là hình ảnh tượng trưng cho phẩm chất kiên cường, bất khuất; thì ở khổ thơ cuối, hình ảnh cây tre được lặp lại nhưng là để tượng trưng cho phẩm chất trung hiếu. Cây tre đã trở thành biểu tượng toàn vẹn cho phẩm chất của con người và dân tộc Việt Nam. Do đó việc lặp lại hình ảnh “tre” ở khổ cuối này đã làm cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng, dòng cảm xúc của tác giả vì thế mà trọn vẹn hơn.	
Khổ thơ đã cho thấy bước chân của người con miền Nam thì rời lăng nhưng tấm lòng thì ở lại mãi mãi. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉcủa riêng tác giả mà còn là của mọi người dân VN.
III/ TỔNG KẾT
1.Nghệ thuật
Về nghệ thuật, bài thơ “Viếng lăng Bác” có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. 
Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa thiết tha, đau xót, tự hào.
Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 chữ hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ thơ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.
Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, làm bài thơ có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. 
Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
2.Nội dung:
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.
Trước tình yêu thương và sự hi sinh của Người, là con dân đất Việt, là thế hệ tiếp cha ông, chúng ta cần phải xác định cho mình một con đường đúng đắn để sống xứng đáng với sự hi sinh ấy. Mỗi chúng ta cần phải cố gắng rèn luyện bản thân và học tập thật tốt để mai này góp phần xây dựng đất nước ta trở nên văn minh hơn và giàu đẹp hơn.

File đính kèm:

  • docxde_bai_phan_tich_tac_pham_vieng_lang_bac_cua_vien_phuong.docx