Chuyên đề Ngữ văn Lớp 9 - Hình ảnh người lính qua hai tác phẩm "Đồng chí" và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng
bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng
nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của
con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở
những buổi đầu của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực
và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ
trong những năm chống Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam
thời đánh Mỹ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau.
Nhưng không phải học sinh nào cũng hiểu rõ được điểm giống nhau và khác
nhau về hình ảnh anh bộ đội của hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ.
Chuyên đề: Hình ảnh người lính qua hai văn bản "Đồng chí" của nhà
thơ Chính Hữu và văn bản " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của nhà thơ
Phạm Tiến Duật giúp cho học sinh hiểu được:
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mamg vẻ đẹp chân chất, mộc mạc
của người lính xuất thân từ nông dân. Đó là vẻ đẹp chân thực, giản dị của anh
bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp.
Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là những chàng
trai trẻ, có học vấn, tri thức. Họ là những người lính được huấn luyện, đào tạo
làm công việc chính là lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Đó là vẻ đẹp hiên
ngang, dũng cảm của người lính lái xe thời kì chống Mỹ. 2. Nội dung chuyên đề.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Ngữ văn Lớp 9 - Hình ảnh người lính qua hai tác phẩm "Đồng chí" và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
CHUYÊN ĐỀ: HÌNH ẢNH NGƯỜI LÍNH QUA HAI TÁC PHẨM " ĐỐNG CHÍ" VÀ "BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH" 1. Cơ sở xây dựng chuyên đề 1.1. Nội dung trong chương trình hiện hành. Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 tập một. Bài 10: Văn bản: Đồng chí của Chính Hữu; Văn bản: Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Thực hiện theo đúng chương trình do Bộ giáo dục và đào tạo quy định. 1.2. Lý do xác định chuyên đề. Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những buổi đầu của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm chống Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mỹ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Nhưng không phải học sinh nào cũng hiểu rõ được điểm giống nhau và khác nhau về hình ảnh anh bộ đội của hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chuyên đề: Hình ảnh người lính qua hai văn bản "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu và văn bản " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của nhà thơ Phạm Tiến Duật giúp cho học sinh hiểu được: Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mamg vẻ đẹp chân chất, mộc mạc của người lính xuất thân từ nông dân. Đó là vẻ đẹp chân thực, giản dị của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là những chàng trai trẻ, có học vấn, tri thức. Họ là những người lính được huấn luyện, đào tạo làm công việc chính là lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Đó là vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe thời kì chống Mỹ. 2. Nội dung chuyên đề. 2.1. Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Chính Hữu và nhà thơ Phạm Tiến Duật. 2.1.1. Chính Hữu Chính Hữu là bút danh của nhà thơ; còn tên thật của ông là Trần Đình Đắc. Ông sinh ngày 15/12/1926 mất ngày 27/11/2007. Quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh – cùng huyện với nhà thơ Xuân Diệu, cùng tỉnh với cả Xuân Diệu và Huy Cận. Chính Hữu thuộc lớp học sinh trung học thời Pháp thuộc sớm giác ngộ cách mạng, và sớm tham gia kháng chiến chống Pháp Tuy là quê ở Hà tĩnh, nhưng tháng 12/1946 Chính Hữu đã là chiến sĩ cảm tử của Trung đoàn Thủ đô - một Trung đoàn nổi tiếng trong lịch sử đất nước. Ông thông minh, tài năng, dũng cảm và có trình độ văn hoá tương đối cao nên Chính Hữu trưởng thành và phát triển khá nhanh trong kháng chiến. Đến năm 1947 ông làm Chính trị viên Đại đội; sang năm 1949 đến 1952 là Phó trưởng ban Văn nghệ quân đội. Tại chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Chính Hữu làm Chính trị viên Tiểu đoàn, thuộc sư đoàn 308 lừng danh bách chiến, bách thắng. Sau hòa bình 1954 ở Miền Bắc, Chính Hữu giữ chức Phó Cục trưởng Cục tuyên huấn thuộc tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Những năm sau này, khi đã chuyển ngành, Chính Hữu từng giữ chức Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khoá III rồi Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV Chính Hữu là lớp người cuối cùng được học và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp khá sâu đậm, đặc biệt là thơ Bô-đờ-le, ông có thể đọc qua nguyên bản bằng tiếng Pháp; nhưng đồng thời, ông cũng là một thanh niên giàu hoài bão và lý tưởng cao đẹp, sớm giác ngộ cách mạng và gia nhập quân đội nhân dân. Từ trong thực tế cuộc sống cầm súng kháng chiến giành độc lập dân tộc, ông đã thật sự có những rung động để cho ra đời những bài thơ về chiến tranh, về người lính hết sức đặc sắc, độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân tâm hồn, tính cách và phong thái thơ Chính Hữu sau này. Những câu thơ trong trẻo, chân chất và giản dị - tưởng không gì giản dị và trong trẻo hơn được nữa nhưng nó lại giàu hình ảnh, giàu ngân rung và có sức gợi cảm. Thơ viết về thời kỳ đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, thì Chính Hữu là nhà thơ có được những lời thơ đẹp nhất, lãng mạn nhất, cũng là tuyệt đích nhất. 2.1.2. Phạm Tiến Duật Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 mất năm 2007. Quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012. Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây". Ông được ca tụng là "Con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "Cây săng lẻ của rừng già", "Nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ". Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là "Có sức mạnh của một sư đoàn" 2.2 Hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. 2.2.1. Giới thiệu chung - Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa rời tay súng. Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc. - Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, bài thơ “Tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính. - Về luận đề: hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ lịch sử. 2.2.2. Phân tích lịch sử 2.2.2.1. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp chung. - Yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng chí: + Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận” (Đồng chí) và “Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước” (Tiểu đội xe không kính). + Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện sự gắn bó keo sơn, tình đồng chí, đồng đội. - Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ: + Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ. + Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “Chờ giặc tới”, “Ung dung nhìn thẳng”. - Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ “Miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng. 2.2.2.2. Những điểm riêng khác nhau Người lính trong bài thơ "Đồng chí" của chính Hữu: Mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, giản dị mà vô cùng cao quý của người lính xuất thân từ nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Những người lính xuất thân từ nông dân, ở những miền quê nghèo khó " Nước mặn, đồng chua", " Đất cày lên sỏi đá". Họ "Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung". Họ đến với cuộc kháng chiến với tinh thần yêu nước thật giản dị: nghe theo tiếng gọi cứu nước mà tự nguyện lên đường. Phía sau họ là bao cảnh ngộ: xa nhà, xa quê hương, phó mặc nhà cửa, ruộng vườn cho vợ con để sống cuộc đời người lính. Chữ “mặc kệ” trong câu thơ “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” đã lột tả được tinh thần “mến nghĩa” của những người nghĩa binh nông dân trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần “Ra đi không vương thê nhi” của các đấng trượng phu xưa và tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của những người tự vệ Thủ đô những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi đặt cạnh hình ảnh “gian nhà không” và chữ “gió lung lay” thì có gì đó cảm động quá. Người lính không hoàn toàn “mặc kệ” như khẩu khí đâu. Đó là đức hi sinh. Hi sinh cho quê hương đất nước. Trải qua những ngày gian lao kháng chiến đã ngời lên phẩm chất anh hùng ở những người nông dân mặc áo lính hiền hậu ấy. Cái nhìn hiện thực đã giúp nhà thơ ghi lại được những nét chân thực về cuộc đời đi chiến đấu của người lính. Hình ảnh họ lam lũ với “Áo rách vai”, “Quần có vài mảnh vá”, với "Chân không giày". Đói, rét, gian khổ khắc nghiệt đã khiến người lính phải chịu đựng những cơn sốt rét: “Miệng cười buốt giá”,"Sốt run người”, "Vừng trán ướt mồ hôi”. Trong hoàn cảnh đầy thử thách đó, sống được đã là kì tích. Chính Hữu còn ghi được hình ảnh người lính can trường vượt lên vững vàng trên vị trí của mình: “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Họ có một đời sống tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc: Lòng yêu quê hương và gia đình thể hiện qua nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, niềm thương “gian nhà không”, qua ý thức về cảnh ngộ “Quê hương anh nước mặn đồng chua” và “Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Từ hiện thực cuộc sống gian lao thiếu thốn, họ vun đắp được tình đồng chí keo sơn, gắn bó. Không phải vô cớ Chính Hữu đặt tên bài thơ là “Đồng chí” và nhiều lần trong bài thơ hai tiếng ấy đã vang lên. Tình đồng chí, đồng đội như là sự hội tụ, tập trung tất cả những tình cảm, những phẩm chất của người lính: Lòng yêu thương giữa những con người cùng cảnh ngộ, tinh thần đồng cam cộng khổ, tinh thần kề vai sát cánh trong chiến đấu, sự gắn kết giữa những người cung chung lí tưởng, chung mục đích và ước mơ. Gian lao thử thách khiến tình đồng chí, đồng đội thêm keo sơn, sâu sắc. Ngược lại, tình đồng chí ấy lại giúp người lính có sức mạnh để vượt qua gian lao thử. Hình ảnh người lính Cụ Hồ trong những ngày kháng chiến chống Pháp được Chính Hữu khắc họa trong tình đồng chí cao đẹp, tình cảm mới của thời đại cách mạng. Họ được khắc họa và ngợi ca bằng cảm hứng hiện thực, bằng những chất thơ trong đời thường, được nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng nên vừa chân thực, mộc mạc. Tóm lại, “ Đồng chí” mang vẻ đẹp riêng của người nông dân mặc áo lính. Đó là vè đẹp: mộc mạc, giản dị nhưng rất thân thương và trong sáng, lòng yêu nước tình đồng chí, đồng đội cùng chia ngọt sẻ bùi gắn kết keo sơn đó là phẩm chất quý giá của anh bộ đội cụ Hồ. Bài thơ là đóa hoa đẹp đầy hương sắc mà Chính Hữu dâng tặng người lính trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến. Người lính trong " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của nhà thơ Phạm Tiến Duật mang vẻ đẹp trẻ trung, sôi nổi của người có học vấn, có tri thức. Nếu như những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, quê hương họ là những nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” thì người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ là những chàng trai trẻ, có học vấn, tri thức. Họ là những người lính được huấn luyện, đào tạo làm công việc chính là lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Đó là vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe thời kì chống Mỹ. Mặc dù không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng họ cũng họ cũng góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh người lính lái xe – hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ phơi phới, dũng cảm, yêu thương được khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không có kính và một giọng điệu thơ ngang tàn, trẻ trung, gần gũi. Những chiếc xe không có kính là hình ảnh để triển khai tứ thơ về tuổi trẻ thời chống Mỹ anh hùng. Đây là một thành công đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh chiếc xe bị bom giặc tàn phá, nhà thơ làm hiện lên một hiện thực chiến trường ác liệt, dữ dội. Nhưng cũng “chính sự ác liệt ấy lại làm cái tứ, làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về những người lính, về tinh thần dũng cảm, hiên ngang, lòng yêu đời và sức mạnh tinh thần cao đẹp của lí tưởng sống cháy bỏng trong họ”. Với tư thế thật bình tĩnh, tự tin “Ung dung buồng lái ta ngồi”, rất hiên ngang, hào sảng “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Một cái nhìn cuộc đời chiến đấu thật lãng mạn, bay bổng, trẻ trung: “Thấy sao trời và đột ngột cánh chim”. Và độc đáo hơn nữa là tinh thần hóa rủi thành may, biến những thách thức thành gia vị hấp dẫn cho cuộc đối đầu, khiến cho lòng yêu đời được nhận ra và miêu tả thật độc đáo: Các câu thơ “ừ thì có bụi”," ừ thì ướt áo” và thái độ coi nhẹ thiếu thốn, gian nguy “gió vào xoa mắt đắng”. Họ đã lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, thái độ hiên ngang để thắng cái vạn biến của chiến trường gian khổ, ác liệt. Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” còn được thể hiện qua những hình ảnh đầy vui tươi, dí dỏm: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng – Thấy con đường chạy thẳng vào tim” Trên con đường ra trận, thiên nhiên khắc nghiệt cũng trở nên thơ mộng, gắn bó, làm bạn với con người, con đường đến với miền Nam thân yêu luôn ở trong tim những người chiến sĩ. Sâu sắc hơn, nhà thơ bằng ống kính điện ảnh ghi lại được những khoảnh khắc “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó là khoảnh khắc người ta trao nhau và nhà thơ nhận ra sức mạnh của tình đồng đội, của sự sẻ chia giữa những con người cùng trong thử thách. Nó rất giống với ý của câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" của nhà thơ Chính Hữu nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn, sôi nổi hơn. Hai câu kết bài thơ làm sáng ngời tứ thơ “Xe vẫn chạy” về tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: Họ mang trong mình sức mạnh của tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước. 2.2.2.3: Đánh giá chung Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội cụ Hồ” thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ nhưng nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người. Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội. Vì thế, hình tượng người lính chân thật và sinh động. Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên muôn màu, muôn vẻ, sinh động và gần gũi. Trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà. Kim Đồng, ngày 10 tháng 11 năm 2015 Người viết. Trần Thị Bích Lan Tài liệu tham khảo. - Sách giáo viên Ngữ Văn 9 tập một. Nhà xuất bản Giáo dục. - Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 tập một. Nhà xuất bản Giáo dục. - Thiết kế bài soạn Ngữ Văn 9 tập một. Đại học sư phạm Hà Nội.
File đính kèm:
- chuyen_de_ngu_van_lop_9_hinh_anh_nguoi_linh_qua_hai_tac_pham.docx